Search for notes by fellow students, in your own course and all over the country.

Browse our notes for titles which look like what you need, you can preview any of the notes via a sample of the contents. After you're happy these are the notes you're after simply pop them into your shopping cart.

My Basket

A guide to understading figures of speech£5.00

Title: Truyện cổ phật giáo
Description: Những mẫu truyện cổ phật giáo

Document Preview

Extracts from the notes are below, to see the PDF you'll receive please use the links above


Truyện Cổ Phật Giáo
(gồm 62 mẫu chuyện đặc sắc)
Pháp Siêu
Nguyễn Thanh Dương

MỤC LỤC
Lời giới thiệu
Thư gởi Hòa Thượng
Lời nói đầu
1
...
Sau bữa đại yến
3
...
Đâu nguồn hạnh phúc
5
...
Trúc Sơn Thị Giả
1

7
...
Người mẹ
9
...
Người con
11
...
Giải oan nghiệp chướng
13
...
Nỗi khổ trong đời
15
...
Xử dụng tài nghệ không đúng chỗ
17
...
Đánh nhau vì cái bóng trong lu rượu
19
...
Con đường hạnh phúc
21
...
Dưới bóng Tam quan
23
...
Sanh diệt lẽ thường
25
...
Tấm choàng nhung đỏ
27
...
Ngai vàng và tội lỗi
29
...
Nóng này có bằng nóng trong điạ ngục chăng?
31
...
Pháp nhẫn nại trong tầm tay sinh sát
33
...
Bắt thỏ cung trăng
35
...
Nước uống vào cổ thành lửa
37
...
Người tớ trai của ông trưởng giả
39
...
Khi lòng đà tung cánh
41
...
Người đẹp bên bờ suối
43
...
Nguồn sống vô tận
45
...
Phụng hành chánh pháp
47
...
Cạm bẫy của trần gian
49
...
Bên tiếng đàn cung nữ
51
...
Con thủy quái biển đông
2

53
...
Con khỉ và con cá sấu
55
...
Cứu hằng vạn sinh linh trong mấy kiếp
57
...
Thoát ách Ma Vương
59
...
Sở nguyện
61
...
Ánh sáng trí tuệ

Lời giới thiệu
Tôi hân hạnh được Thầy Pháp Siêu tức là Nguyễn Thanh Dương trình bày với tôi, Thầy
đã phải trải qua nhiều năm sưu tập và dịch thuật một bộ TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO gồm có
62 bài Giảng Luận tóm rút các phần tinh hoa đặc sắc
...

Sắp đến Mùa Vu Lan tôi rất bận nhiều Phật sự, tuy nhiên cũng cố gắng xem qua một số
bài tập Bản thảo, thấy rất hữu ích cần phổ biến để sương minh Phật Pháp lợi lạc quần sanh
...
Nên
viết lời giới thiệu về quyển sách qúy này, mong chư Thức Giả cố gắng xem qua mỗi bài sẽ
tăng thêm Pháp vị và ý nghĩa khác nhau càng xem càng thấu lý uyên thâm
...

Lời sau cùng là chân thành cảm tạ Soạn giả tốn rất nhiều thì giờ ra công Dịch thuật hầu
góp phần hoằng dương Phật Pháp, kế thứ nữa là chứng minh công đức và cám ơn các học
giả, tín chủ cùng Phật tử đã và đang góp phần công đức ủng hộ vào quyểnTruyện Cổ Phật
Giáo này
...
Cầu nguyện cho
âm siêu, dương thới, Pháp giới chúng sanh, tề thành Phật quả
...
Như lời tôi đã thưa lên
Hòa Thượng soạn dịch phẩm và toàn bộ băng thâu Truyện Cổ Phật Giáo do tôi thực hiện
đã được hoàn thành và nay kính gởi đến Hòa Thượng
...
Số thứ tự truyện được đánh bằng mực đỏ từ 1 đến 62
...
Về phần băng cassette thâu là 4 băng C
...

Bạch Hòa Thượng, vào năm 1964, nhận thấy Phật giáo Việt Nam cần có một bộ Truyện
Cổ Phật Giáo đầy đủ và mẫu truyện đạo rất cần thiết để làm bằng chứng cho các cuộc
giảng thuyết và học tu nên tôi đã thực hiện bộ truyện này, nhưng liên tiếp trải qua nhiều
biến cố nên sách không được in ra tại Việt Nam
...
Trong 10 năm sống
tại Mỹ, sách cũng chưa đủ duyên để ra mắt và tôi luôn luôn tu chỉnh sách này cho được
hoàn hảo
...

Nguyện cầu Pháp thí này đến Hòa Thượng Phật Đạo Viên Thành
...

Kính thư
Pháp Siêu (Nguyễn Thanh Dương)

LỜI NÓI ĐẦU
Trong Phật Giáo mỗi mẫu truyện đạo được hàm chứa đầy đủ và sâu sắc về đạo đức, giáo
dục, luân lý, và triết học…
Những mẫu truyện trong quyển Truyện Cổ Phật Giáo này được chọn lọc và diễn dịch từ
các bộ: Pháp Cú Kinh Diễn Giải (Dhammapada), Túc Sanh Truyện (Jataka), Hạnh Phúc
Kinh (Mangalasutta) và Thanh Tịnh Kinh (Visuđha Magga)…Còn có thêm những mẫu
truyện được biên soạn trong tư tưởng Phật Giáo, đã được tôi thực hiện trong nhiều năm
qua tại Việt Nam và ở hải ngoại
...

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Pháp Siêu (Nguyễn Thanh Dương)

1
...

Anh nghe nói ở một ngôi đền nọ có một vị Đạo Sĩ chân tu, luyện được nhiều phép mầu
nhiệm, thông đạt được nhiều lẽ tinh vi, huyền diệu của vũ trụ, bèn quyết tìm đến học
...
Từ chân
trời, một hôm đền thiên đã lồ lộ hiện ra, uy nghi, rạng rỡ
...

Anh tìm đến biệt phòng của Đạo Sĩ, qùy dưới chân người:
- Thưa Thầy! kẻ hèn này vốn từng ngưỡng mộ uy danh của Thầy, tin tưởng ở phép mầu
nhiệm ở đạo, nên từ xa xôi muôn dậm đến đây để cầu mong Thầy chỉ cho con đường đi tìm
chân lý
...
Con đường chân lý
phát xuất từ đền thiêng ấy là vì sự thật phải bắt đầu tìm thấy bằng sự “yên tĩnh của tâm hồn,
bằng lòng tin cẩn tin yêu của trí tuệ”
...
Ba bậc ấy
dạy rằng: không dày công chịu khổ nhọc để biết rõ cuộc đời, không dứt bỏ được ý riêng tư
khách quan nhìn xét sự vật, không thiết tha vì lòng thương mà đòi hỏi sự thực, thì không
bao giờ tìm thấy sự thực
...

Người trai trẻ cảm thấy vui mừng khôn xiết, vội hỏi:
- Thưa Thầy, vậy chân lý hiện ở trên chót đền?
Đạo Sĩ ôn tồn bảo:
- Chính thế
...
Tượng ấy hình dáng thế nào ta cũng chưa biết được, vì ta chỉ mới đi khỏi
con đường khổ hạnh xong và đang vào bậc vô tư
...
Còn qua một đoạn
5

đường cuối cùng, đoạn đường nhân ái, là ta sẽ thấy muôn vẻ huy hoàng của Chân Lý,
nhưng con đường nhân ái khá gần mà cũng khá xa, bởi vì con người thường lầm lạc tình
yêu, lòng yêu mình với lòng yêu kẻ khác, nên chỉ có ba mươi bước nữa mà ta còn lầm lẫn
...
Có kẻ xong bậc thứ nhất, có kẻ đang bước
lên bậc thứ nhì, có kẻ đang loay hoay khởi sự từ đầu và biết bao kẻ đã thối chí trở về từ chối
tìm hiểu sự thật, vì lòng họ không đủ tha thiết để chịu đựng bao nhiêu thử thách
...

Từ đấy người trai trẻ bắt đầu học tập
...
Từ đấy đối với anh, cảnh sắc chung quanh đã có phần thay đổi
...

Anh không tiếp xúc sự vật bằng sự hời hợt của não tủy
...

Nhưng mỗi sớm nhìn lên đỉnh đền chót vót, anh cảm thấy đường đi quá sức xa vời
...
Anh ngắm những
bức tường ngăn cách, những bậc cấp cheo leo và muốn rút ngắn đoạn đường
...

Nhân một đêm trăng lặng anh dùng dây leo tường
...

Càng lên cao nhìn xuống trở lại, anh thấy mình đã làm được một kỳ công
...
Anh tự nhủ:
- Đi tìm thực sự không phải có một con đường ba bậc
...

Rồi anh bước vào đền, nơi đặt tượng thần chân lý
...

Anh đi lần vào trong, cảm thấy trong mỗi bước đi sự tịch mịch càng nặng nề
...
Anh tự nhủ:
- Bây giờ chỉ còn mình ta với sự thực
...
Anh lại
gần thu hết can đảm để xô cửa…!
Bỗng anh rú lên ôm lấy mặt và như một người bị xác chết dậy đuổi, anh hoảng hốt chạy
ra khỏi đền, luống cuống húc đầu vào các cột đá, vấp trên bục cửa, ngã trên nền gạch nhưng
sự kinh hoàng quá độ khiến anh tìm cách thoát thân
...

Sáng hôm sau người ta tìm thấy xác anh đã cứng lạnh dưới chân đền, nét mặt vẫn còn co
túm lại trong một vẻ hãi hùng tột độ
...
Y đã đi theo con đường tà đạo,
vì y cho rằng con đường ấy mau chóng hơn và chỉ có tài năng của y mới giúp y tới mau
được
...
Khi cái tâm đã
chính thì tài năng sẽ là những chiến công, những thành tích rỡ ràng
...
Kết quả mà y tìm thấy là một sự thực
gớm ghiếc, đã làm y khủng khiếp phải hủy diệt đời mình
...

Kẻ nào không đi bằng ngã ấy mà muốn dùng mưu mô thủ đoạn, đàn áp lừa phỉnh thì không
phải chỉ một cá nhân mà cho đến một chế độ cũng phải bị hủy diệt thảm khốc
...
Các con hãy đem
chôn xác y trước cửa đền và đồng thời tạc trên mộ bia y nét mặt kinh hoàng, khủng khiếp
của một kẻ đã tìm gặp sự thực bằng con đường phản chánh đạo, để làm gương cho bao
nhiêu kẻ khác
...
SAU BỮA ĐẠI YẾN
Xưa kia có năm vị Quốc Vương
...
Dân chúng nơi nơi làm ăn thịnh vượng
...

Việc trị nước của Vua Phổ An rất là minh chánh mà bốn vị kia lại theo tà đạo
...

Khi mãn hội các vua sắp sửa lên long xa ai về nước nấy
...


Vua thứ hai:


Tôi thích được làm vua lâu dài mỗi khi lâm triều mặc triều phục uy nghiêm sang
trọng ngự giữa điện rồng, lầu các ngập tràn ngọc ngà châu báu, bá quan thần dân hầu
hạ hai bên, tiếng chuông trống long phụng vang rền, cờ xí đôi hàng rực rỡ
...


Ông vua thứ tư đáp:


Tôi muốn cha mẹ tôi được trường thọ bách niên, vợ con sum họp, anh em đông đảo,
mặc những quần áo đẹp, ăn những món ngon, và cùng nhau chung hưởng vui đời
hạnh phúc
...
Riêng
tôi, tôi chỉ thích cái vui: chẳng sinh, chẳng tử, chẳng khổ não, chẳng lạnh, chẳng
nóng
...


Bốn vua nói:



Vậy chúng tôi có thể yết kiến Ngài được không?
Được chớ, quý lắm đấy
...

Khi năm nhà vua hành lễ và thưa thỉnh xong, đều lui về chỗ ngồi
...
Nhưng
khổ của đời quá nhiều, mà gọn lại chỉ còn tám thứ:

Sinh, già, đau, chết, tình yêu ly biệt, cầu mong chẳng được, gặp kẻ oán giết, và rầu lo khổ
não
...
Sống cái
thân trung ấm với thời gian hai mươi mốt ngày, gặp khi cha mẹ giao hợp liền thọ vào thai,
bảy ngày ban đầu hình trạng như chất mỡ lỏng, bảy ngày thứ hai như mỡ đông đặc, bảy
ngày thứ ba như mỡ đông cứng, bảy ngày thứ tư như lát thịt mỏng
...

Nếu mẹ ăn phải đồ ăn nóng, thì bào thai như bị nằm trong chảo nước sôi, hoặc uống
phải một chén nước lạnh thì như nằm trong băng tuyết và lấn ép thân thể của mẹ, mẹ rất đau
khổ
...
Ra khỏi cửa
lòng mẹ, da thân mỏng manh rủi phải lá cỏ đụng vào cũng đau như bị dao cắt, hoảng hốt
thất thanh khóc lớn
...
Da đùn, mặt nhăn, trăm đốt xương đau nhức, bước đi cực khổ, ngồi đứng không
yên lòng dạ lo buồn, và tinh thần dần dần tiêu giảm
...

Nếu một món chẳng điều hòa thời phát sinh trăm lẽ bệnh, mà bốn đại không đều hòa thì
thân thể nặng nề; thủy đại chẳng điều hòa thân thể phù thủng, hỏa đại chẳng điều hòa thân
thể nóng nảy, phong đại chẳng điều hòa thân thể động chuyển
...

Miệng khô, lưỡi thụt, mũi nghẹt, mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe, những đồ nhơ nhớp
tuôn trào, rồi ngồi nằm trên ấy: tâm thần khổ não, giọng nói bi ai, buồn thảm
...

4/ “Những khổ về chết”: thân người đến lúc sắp chết thì một trăm lẽ một bệnh nhất tề
phát khởi, bốn đại phân tán thần thức chẳng an, gió thổi tới như dao cắt, đau nhức toàn thân,
toát mồ hôi trắng, hai tay buông xuôi; Phong đại tản đi là hết hơi thở; Hỏa đại đi theo là tấm
thân lạnh ngắt như đồng
...

9

6/ “Những khổ về mong cầu chẳng được”: của mất cầu được lại, cầu quan, cầu giàu, khi
khổ cực cầu đủ cách, nhưng cầu mãi nào dễ được đâu?
7/ “Những khổ về gặp kẻ oán ghét”: con người trong cảnh ái dục một việc nhỏ cũng vẫn
tranh giành rồi do đó mà giết hại lẫn nhau gây thành oán lớn, tuy cố tình lánh mặt nhưng
không nơi tránh thoát, chỉ còn nước mạnh ai nấy mài dao chuốt tên hại lẫn nhau, rốt cuộc
đôi bên đều bị tổn hại
...
Và qua tám mươi tuổi thời già
nua hết trí tuệ, tai điếc mắt mù
...

Trong khoảng mười năm ấy, chỉ có lo rầu chiếm hết phần nhiều, lo rầu thời cuộc biến
loạn, thiên thời nắng hạn, bão lụt mùa màng hư mất, bà con nội ngoại đau ốm, nghèo khổ
...

Như vậy người sống ở trên trần gian này, hầu hết thì giờ bỏ vào việc lo buồn mà phải bị
hao tổn tâm thần rồi già chết
...
Bá tánh
từ đó mà an cư lạc nghiệp, biên cương yên tĩnh, quốc gia mỗi ngày thêm mạnh, hưng cường
hơn trước
...
DƯỚI BÓNG TỪ BI
Ngôi sao mai vừa lên chót đọt cao xa, thì đạo quân tiểu trừ của Đô Đốc họ Đào cũng vừa
đến đầu cánh đồng Phượng Vĩ đang chìm đắm trong giấc ngủ mê say, lệnh bao vây đã
truyền đi tức khắc
...
Đó là đạo binh của triều
đình khét tiếng bạo tàn trên khắp núi rừng, thôn xóm của suốt bảy tỉnh miền Nam Trung,
bạo tàn với tất cả những kẻ đã chống lại triều đình, chống lại nhà nước Bảo Hộ, tất cả dù là
trong hàng vương tôn qúy tộc, hay ngoài tiện dân lê thứ là võ sinh, nho sĩ hay nông phu
...

Không ai đếm được bao nhiêu cảnh chết chóc đó trong bao nhiêu năm nay!
10

Cũng không ai đếm được thanh Ngân tuyền kiếm của Đô đốc họ Đào đã bao nhiêu lần đỏ
máu của anh hùng trong thiên hạ!
Người ta bảo rằng viên tướng trẻ ấy chưa hề biết rung động trước một đôi mắt sầu ngập
lệ , trước một tiếng thất thanh não nùng của người sắp chết hay trước một tiếng ré thét kinh
hoàng của một đôi môi hồng mọng sữa
...

Nhưng người ta cho biết rằng, Đào không bao giờ hả hê cả: hay là như chính Đào đã
nghiến răng mà nguyền, là Đào chưa bao giờ hả hê được!
Bởi vì Đào còn một mối phụ cừu chưa rửa xong!
Ngày nào thanh Ngân tuyền được vấy máu kẻ đại cừu, họa mới có thể là ngày Đào mới
coi lại bàn tay tanh máu của mình
...

Giữa thời ly loạn, ai kia như hạc nội mây ngàn, có dễ gì để cho Đào thanh toán được
...

Và đêm nay, vó ngựa tiểu trừ của Đào lại hướng về Phượng Vĩ thôn vô tội
...

Tiếng gà xao xác gáy, lẻ loi, rải rác
...

Vài tiếng trẻ khóc tu oa
...
đứt quãng
...

Lỏng tay cương, Đào khoanh tay ngồi im trên lưng ngựa
...

Quay sang nhìn tùy tướng Đào hỏi:





Đã chặt chẽ cả chứ?
Bẩm đã
...

11

TIẾNG CHUÔNG NGÂN TRONG SƯƠNG MÙ











Chưa vội! Hãy chờ đến sáng rõ
...

À, Võ Nhân!
...
Và tiếng chuông ấy chắc hẳn là của Hòa Thượng
Khổ Hạnh đang công phu
...

Tiếng chuông hình như vang từ một cao điểm
...

Bẩm đúng thế! Chùa nằm trên chót đồi Bạch Liên
...
Có lẽ bây giờ
đã nở và đồi đã thơm hương
...


Rồi ghìm giây cương Đào nói tiếp như nói với mình:


Ngồi bên một ấm trà bốc khói trong lúc này hẳn là ấm cúng! Lâu quá rồi ta chẳng
biết đến cái hương vị một chén trà mạn sen
...
Chuông ngân chầm chậm
...
đều đều
...
của một vị sư có lẽ đã già
...

Hương sen thoang thoảng quanh người mát rượi thơm tho
...

Quả như lời Võ Nhân, sen đã trổ đầy rồi
...

Đào lẩm bẩm:


Lạ! Đồi cao thế này, mà lại tụ thủy được?

Nghe nói Võ Nhân vội đáp:


Bẩm không phải! Hồ chỉ trũng sâu trong lòng đá, chứ không có mạch thủy
...
Không rõ đó
là công trình của hóa công hay của con người
...

12

Đào gật gù
...
Đào đi vòng theo hồ để đến cửa chính
Đào bỗng hỏi Võ Nhân:





Pháp danh của vị Hòa thượng này là gì nhỉ, ta quên mất
...

Chắc chắn là tướng công sẽ được hài lòng khi gặp người
...
Và cửa mở khi tiếng gõ lần
thứ nhì vừa dứt
...

Đào sáng mắt nhìn trong lúc ni cô cúi đầu thi lễ:


Mô Phật! Xin rước quý ngài vào trong
...


Rồi trang nghiêm, người đứng về một bên chừa lối, tay giơ cao ngọn nến cháy chập
chờn
...

Tiếng chuông không rõ đã dứt tự bao giờ
...
Khói thơm quyện lấy người, mờ tỏa màu áo cà sa và màu sáng của tượng Phật
bằng đồng
...
Mắt Đào thong thả nhìn cái dáng lưng gầy gò của sư cụ,
qua những bức tượng màu, đến những nét chữ chân chữ thảo trên mặt hoành, mặt liễn
...

Sư cụ vẫn giữ nguyên tay giữa ngực, và ung dung quay lại
...

Đang vừa muốn thi lễ, Đào bỗng giựt phắt người, tay đặt ngay vào chuôi gươm
...
Cái trán cao của người đã cúi xuống với tiếng
chào:


Mô Phật!
...

Xung quanh, bao nhiêu ánh mắt cũng ngửng lên, lạ lùng nhìn Đào rồi nhìn sư cụ
...


Nghe được, Đào bật lên một tràng cười điên dại, rồi lại tắt ngay, răng nghiến vào nhau
trèo trẹo:


Oan gia!
...
Quả trời cao có mắt
...

Một tiếng kêu hốt hoảng bật khẽ từ bên cạnh
...

Và một tiếng rú từ trước mặt, giữa khung cửa vào hậu liêu
...

Nhưng Đào không lệch mắt nhìn, mũi Ngân Tuyền vẫn không lệch đích đi
...
Đào Kim Vũ này đã tìm người khắp bốn phương trời,
trong suốt năm năm nay
...
Ha
...
Nguyễn Quốc! Nguyễn Quốc!
...




Mô Phật! Công tử đã không lầm, Nguyễn Quốc chính là bần đạo!

Đào dừng chân, và tắt tiếng cười, sòng sọc nhìn cái vẻ điềm nhiên trên nét mặt già khắc
khổ của cừu nhân
...





Bao năm nay quả bần đạo không chờ có một ngày nay
...
! Hừ!
...

Đức Thích Ca Mâu Ni sẽ soi sáng cho Phật tâm của bần đạo!
...

14



Vui lòng! Vui lòng!
...
Này thanh gươm này của ai ngươi nhớ chứ?

Mũi Ngân tuyền ghim sát vào ngực áo gầy, hơi thép rờn rợn lạnh
...
Nhưng ở đây gương mặt
vẫn không đổi sắc
...
Nhưng trong bao năm nay lại cũng chính nó đi đẫm
máu dân lành
...


Đào gầm lên:


Câm đi!
...


Thu tay gươm, Đào quay lại đám tùy tướng hạ lệnh:



Bắt sạch tất cả người của thôn xóm Phượng Vĩ lên đây cho ta
...
Xin công tử đừng làm thế mà kinh động dân lành tội nghiệp!
...
Công tử có muốn họ chứng kiến cái chết của bần đạo cũng
được, nhưng xin để cho bần đạo gọi họ
...


Rồi không chờ đợi Đào bằng lòng, sư cụ quay lại gọi:





Diệu Liên!
Mô Phật!
Con ngân đại hồng chung cho tất cả chúng dân biết rằng ta đang cần gọi họ về chùa
...

Đào và tướng tá đứng quanh không một lời nói
...


MÓN NỢ XƯƠNG MÁU
Dưới thôn xa, gà đang rộ tan canh
...
nhưng lại không giống như người thuyết pháp
...


Cái tin kia đã làm xúc động toàn cả Huế Đô bao nhiêu thì cái tin này, đã khiến phần đông
người kể cả dân chúng lẫn quân binh hài lòng bấy nhiêu
...
Tuy nhiên, người ta đã phân vân không rõ vì sao Văn bị giết? Và ai là
người giết Văn?
Nhưng rồi sau đó người ta biết: Kẻ giết Văn chính là Nguyễn Quốc, một bằng hữu thân
thiết đồng cấp với Văn trong một đạo quân phòng thành! Biết chính là Quốc, bởi vì gần nơi
Văn chết không xa, người ta tìm thấy thanh gươm Ngân Tuyền của Quốc rơi lại
...

Cái lẽ đó như thế này
...

Nhập vào đội quân thành Quốc chỉ vì đại cuộc
...

Đó là giờ phút quan trọng của lịch sử
...
Thế mà buồn biết chừng nào! Văn đã không
muốn biết đến, mà còn dụng tâm phá hoại
...

Và tất nhiên, Quốc được lệnh phải bảo vệ cho kỳ được cái kín nhẹm của mưu đồ
...

Cuối cùng, chỉ còn Quốc, một người một gươm đối diện với Văn
...

Quốc biết việc làm của mình rất khó:
“Nhiệm vụ và nghĩa tình”

16

Cho nên Quốc đã rơi nước mắt mà khuyên Văn theo mình nghe theo lời phủ dụ của Đức
Vua Duy Tân
...

Nhưng cuối cùng, Văn chạy vụt đi
...
Cũng chỉ vì đại cuộc của dân tộc!
Khổ Hạnh Hòa Thượng ngưng nói, nhìn bao quát tất cả
...
Và có lẽ họ cũng đã hiểu được điều gì xảy
ra trong sớm nay, trước khi mặt trời lóe mọc
...


Cho nên trước khi đem cái chết để giải một oan cừu, bần đạo xin mượn lời người xưa để
gởi lại đời những nỗi niềm không bao giờ nói
...


Trong khoảnh khắc, vách chùa hồng lên những giòng thơ sắc nét ngang tàng
...

Nét sát khí như dịu đi trên gương mặt trẻ
...
Và trong một thoáng Đào như quên đi việc phải làm, quên đi những điều đã gậm
nhấm đêm ngày
...
Oán cừu lại nổi giận
...

Đào thét:


Thôi đi! Kẻ khẩu Phật tâm xà! Đừng nhiều lời để mong ta tha thứ! Ngươi phải chết!
...

17

Tất cả như toàn thân ớn lạnh
...

Nhưng hôm nay
...
Ngươi ngăn ta chăng?
Bẩm không! Mạt tướng không dám thế! Mạt tướng chỉ cầu xin tướng công xét lại
...
bẩm tướng công, nói điều này mạt tướng biết sẽ chịu ngay sấm
sét, búa rìu, nhưng xin tướng công thương, chứ quả tình, không hiểu vì sao mạt
tướng lại cảm thấy Khổ Hạnh Hòa Thượng đáng kính hơn đáng hờn
...

Ta bảo im!
...
Và chớp mắt, vung mạnh một đường gươm không thương xót
...

Một khoảng hoa lá rung rinh
...

Và khối thịt của Võ văng đi lăn lông lốc trên các bực thềm
...

Trời sương hải hùng, nức nở
...

Diệu Liên Ni Cô đã quỵ xuống tự bao giờ, toàn thân rung rung trong lớp áo nâu sồng
...
Có đáng gì!
...
Hết nhìn bọn tùy
tướng len lét cúi đầu, Đào lại nhìn đám dân đen đang bàng hoàng trong nước mắt
...


Thâm tâm Đào tự cho đó là câu hỏi thừa
...

Nhưng kia
...



Tôi!

Không nói không rằng, Đào tím mặt nhảy vụt xuống bờ hồ vòng nguyệt
...

Ni cô Diệu Liên cũng đã đứt phắt dậy, và cũng với một tiếng lạnh lùng
...

Giữa lúc Khổ Hạnh Hòa Thượng vội thẳng người dậy vươn tay về phía trước, như cản
ngăn:


Mô Phật! Đừng! Đừng! Hãy để cho linh hồn bần đạo nhẹ nhàng siêu thoát
...
Còn kẻ hèn này lại để cho người vì mình mà uổng tử!
...
Biết bao giờ ta mới được trả cho tròn!
...
Vì dân vì nước mà bần đạo gieo cái nhân thì bây giờ
gặt cái quả, bần đạo cũng muốn vì dân vì nước
...

Ngươi khỏi cần nài!
...


...
Ta cho ngươi một khắc cuối cùng để mà dọn mình
...

Nam Mô Quy Y Kim Cang Thượng sư
...

Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng
Boong!
...
Và lời kinh sám hối trên đôi môi già ướt lệ, cũng buồn như một lời than não
nùng
...
Chưa bao giờ
người nghe mình đau đớn trong thời kinh sám hối như hôm nay
...

Diệu Liên Ni Cô nghe đau nhói theo từng mỗi tiếng đồng
...
Người cảm thấy
nó sẽ giơ lên và nó sẽ hạ xuống
...
Than ôi! Suốt bốn năm đằng đẵng, công ân dẫn dắt qua khỏi vòng nghiệp
chướng tham, sân, si
...
nào biết là bao nhiêu?
Giờ đây không thể không đền đáp! Không thể không giữ cho tấm áo cà sa kia của
sư phụ đừng vấy máu!
Boong!


Xin ngài hãy giết tôi! Hãy giết tôi!
...
Van ngài
...

20

Bờ mi đẹp đọng lệ long lanh, như sương tươm đầu lá ướt
...
Rồi bỗng quay đi, răng cắn lấy bờ môi
...

Và từ nơi đó, và khắp cả rền lên những lời cầu nguyện tha thiết:


Mô Phật xin hãy thoa dịu hờn căm trong lòng người, xin đừng để
...
Đừng để cho oán thù truyền kiếp chất chồng
...
Nhưng cái hình hài không đầu chưa
khô máu lại đón mặt Đào
...
từ khắp cả, từ trên mỗi lòng hoa, mặt lá,
hiển hiện đôi mắt sầu ai oán của Võ
...
Những lời than
não nùng, những tiếng thét kinh hoàng, những đầu rơi lông lốc, những hình hài máu đỏ
...

Và thanh Ngân tuyền rời khỏi bàn tay đang nắm
...

Không còn kềm chế được nữa, xúc cảm dâng tràn
...

Đào ngoảnh mặt quay ra
...

lệ mờ đất sớm
...

Mười năm sau, những ai thường đi ngang qua thôn Hoàng Mai yên lành ở cuối dãy
Trường Sơn đều biết vị Hòa Thượng trụ trì am Đại Hạnh
...
Không ai biết
người từ đâu đến tên thật là gì ngoài pháp danh Giác Minh
...

Người ta kể rằng:


Giác Minh Hòa Thượng đã từng cởi áo cà sa của mình đắp cho một người ăn xin
nghèo đói đang run rẩy bên đường
...
Những đêm khuya tăm tối, dù giữa trời giông gió, dù dưới
cơn rét tận tâm can, hay mưa dầm gió buốt, người ta vẫn thấy một ánh đuốc lập lòe
21

của Hòa Thượng xuống đồi đi lần vào lòng thôn xóm đang cần đến người
...
Mọi việc người làm để cứu nhân độ thế, chưa từng có
một ai tích cực bằng
...


Cho nên đêm đêm, giữa thảo am chập chờn ánh nến khói hương tỏa mịt trước
Phật Đường, lời kinh sám hối của người vẫn buồn như một lời than não nùng
...


***

4
...
Gió muôn phương
thổi lại, đem hương hoa về ướp thơm cảnh vật nơi vùng tịnh xá Kỳ Hoàn
...

Giữa khung cảnh tươi đẹp ấy, có bốn thầy Sa Môn mới nhập đạo cùng ngồi đàm luận
dưới gốc cây cổ thụ
...
Sau vài phút trầm ngâm, vị thứ nhất bảo:
Vào tiết trong Xuân, cây cỏ khoe tươi, muôn hoa cười nụ, tiếng chim líu lo trên cành
bích, hương thanh phảng phất khắp khắp nơi, phong cảnh thật là đẹp! Trong lúc ấy ví
ta được thả con thuyền nhẹ theo giòng nước hay mang theo bầu rượu đến sườn non,
chắc trong đời không chi thích thú bằng!

Vị thứ hai đáp:


Cảnh gia đình sum họp vẫn là vui
...


Vị thứ ba nói:

22



Tôi thấy: Nếu ta được sinh trong dòng tôn quý cao sang ở lầu cao nhà rộng, sẵn tiền
bạc nhiều, ta muốn mua sắm món gì cũng tùy thích
...
Lúc vào nhà ta gọi đến lắm kẻ kính thưa hầu hạ
...


Vị thứ tư lại bảo:


Giữa đời, tiền bạc, quyền tước có lẽ còn dễ tìm hơn gia nhân, riêng về tôi nếu người
nào có được đôi ba nàng hầu, thiếp tuyệt sắc, kẻ ấy vua chúa chưa chắc đã sánh bằng!
Còn thú gì vui hơn
...
Lại còn những lúc cùng
người ngọc bàn câu phong nguyệt, cạn chén, đồng tâm, chắc rằng hạnh phúc giữa
trần hoàn không qua mấy điều tôi đã kể
...


Bấy giờ, cách đấy không xa, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đang đi kinh hành chung quanh
Kỳ Hoàn Tịnh Xá, nghe mấy lời ấy, Ngài động lòng thương xót liền bước đến hỏi: “Các
ông bàn luận chuyện gì thế?” Bốn vị Sa Môn không dám che dấu, phải đem sự thật thưa lên
...
Vì sao? Cảnh vật dầu tươi đẹp trong mùa xuân, nhưng
sang thu, đông phải tàn tạ héo khô
...
Tiền của, ngựa xe là những vật không lâu bền, và khi chết ta
không thể đem theo
...
Những cảnh hư nhà hại mạng phần nhiều từ đấy sinh ra
...
Tuổi xanh đưa lần đến già, sống đến chết mới đó như giấc mộng kinh
hoàng; sum họp rồi lại chia ly, thú vui không bền vững, hạnh phúc chẳng trường tồn
...
Chỉ có cảnh Niết Bàn là sáng suốt trường tồn
...
Muốn đến cảnh tây phương cực lạc để được hưởng hạnh
phúc vĩnh cửu, các ông phải thực hành và đi theo con đường bát chánh, con đường ấy
có tám chi là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh
tấn, chánh niệm và chánh định
...
Khi Đức Thế Tôn trở gót bước đi, không ai bảo ai, bốn người đều ngồi thẳng
mình để tâm vào cõi thanh nhàn, vắng lặng
...
Dạ thần cũng bắt đầu rũ màn âm u
trên vạn vật
...
Cũng trong lúc ấy, khi ánh sáng đời
sắp tắt, ánh sáng đạo lại bật chiếu rạng rỡ nơi tâm tư của bốn vị Sa Môn
...


***

5
...

Vì hiểu rõ tâm xu hướng của chúng sinh, nên có thể phân biệt căn cơ lanh chậm
...
Ông phụng trì giới cấm chẳng hủy phạm;
thủ chí nhẫn nhục mà chẳng giận dữ, tinh tế mà chẳng biếng nhác; nhất tâm thiền định mà
chẳng loạn ý, dùng quyết định trí huệ mà nhiếp phục kẻ vô tri
...
Đọc các kinh ngoại đạo mà lòng
chánh tín chẳng sờn, học các sách thế gian mà vui Phật pháp
...
Vào trong giảng đường giảng
dạy đạo pháp
...

Khi tiếp các trưởng giả vì nói thắng pháp, tiếp cư sĩ khiến đứt tham đắm, nghinh tiếp vua
chúa giáo hóa nhẫn nhục, tiếp Bà La Môn khiến trừ ngã mạn, tiếp quan đại thần giáo hóa
chánh pháp, tiếp các vương tử dạy điều trung hiếu, tiếp các nội quan diễn nói chánh pháp,
tiếp xúc với thứ dân dạy nên tu phước lực
...

Bấy giờ cư sĩ mới thị hiện bằng cách dùng phương tiện đau ốm
...
đều đến thăm bệnh
...

Đức Phật ở xa hay tin Duy Ma Cật lâm bệnh ngài mới đòi Xá Lợi Phất đến bảo:


Ngươi qua thăm bệnh Cư Sĩ
...
Làm được như trên mới chính là
ngồi yên trên tòa mà thiền định
...

Đức Phật cho đòi các ông: Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Ca Chiên
Diên, A Na Luật, Ưu Bà Dy, La Hầu La, và A Nan là mười vị đại đệ tử cũng đều từ thác bất
kham vì đều đã bị những trường hợp tương tợ như Xá Lợi Phất
...
Vậy ngài sẽ
thành Phật vào đời nào? Quá khứ vị lai, hay hiện tại chăng?

Xét ra quá khứ qua rồi vị lai chưa đến mà hiện tại thì chẳng trụ; như vậy ba đời đều tìm
chẳng được? Nhưng vô sanh là chính vị, mà đã chính vị là trung ương thì đâu còn có thọ ký
gì nữa? Hay là như tánh mà thọ ký chăng? Lại cũng không được vì tất cả chúng sinh đều
như tánh, cho nên khi ngài được thọ ký thì tất cả chúng sinh cũng được thọ ký, tại sao? Vì
tất cả chúng sanh là tướng Bồ Đề vậy
...
Sau khi nghe ông thuyết một hồi tôi cũng chẳng đối đáp gì
được
...

Đức Phật cho mời ngài Văn Thù Sư Lợi đến và bảo thay Ngài đi thăm bệnh Cư Sĩ
...
Thế là cả Đại chúng tùy tùng với Văn Thù, vào thành Tỳ Đa Ly
...

Cư Sĩ vừa thấy Ngài Văn Thù liền nói:


Văn Thù Sư Lợi! Là tướng chẳng đến mà đến, tướng chẳng thấy mà thấy
...
Đoạn ông nhập đề:
Cư Sĩ! bị bệnh chi, có dễ chịu không? Bệnh tăng hay giảm? Đó là lời ân cần của Đức
Thế Tôn gởi thăm Cư Sĩ
...
Xin mời Ngài xem: Bồ Tát đâu chẳng phải
không bệnh vì chúng sinh ra vẫn còn tử là phải bị tật bệnh
...
Ví như trưởng
giả có một chút con trai mà cậu con trai bị bệnh, thì ông bà trưởng giả kia cũng muốn bệnh
theo, bệnh của Bồ Tát bởi lòng từ bi mà sinh
...

***

6
...
Các vị khác dạy cho học thêm cũng lười biếng
...
Cùng ngày ấy sa
giá của vua cùng một số quần thần văn quan thừa tướng đi kinh lý qua chùa, nhân dịp ấy
vua vào viếng chùa luôn thể, vốn dĩ đức vua cũng là môn đệ của nhà Phật nên rất thông hiểu
giáo lý của PHẬT PHÁP, vì không có ai nên thị giả của sư trưởng phải tiếp phái đoàn vua
quan, sau phần lễ sơ kiến và NAM MÔ PHẬT thị giả kia không nói lời nào cả, thật ra thị
giả chẳng biết lời nào để nói, đành phải cúi đầu chào đạt ý
...

Thị giả lắc đầu và đưa tay chỉ xuống đất
...

Thị giả lắc đầu và đưa tay chỉ sau lưng
...








Tiếp tục vua lại đưa lên bốn ngón tay
...

Vua lại đưa ba ngón tay
...

Vua sụt xuống còn lại hai ngón
...


Lúc đó vẻ mặt vua tỏ vẻ kính phục và nể trọng vị thị giả quá mức liền quỳ gối xuống lạy
ba lạy làm cho tất cả quần thần đi theo từ tể tướng trở xuống ai cũng qùy sụp lạy theo cả
...

Vua thấy vậy càng kính trọng hơn liền phục lạy thêm ba lạy làm tất cả quần thần đều phải
lạy hết
...

Trên đường về kinh, quan tể tướng cùng quần thần thắc mắc và hỏi đức vua không biết
tại sao vua quỳ xuống lạy và tỏ vẻ mặt rất là kính phục quá mức như vậy? Vua trả lời:






Vị thị giả kia quả là đạo hạnh cao thâm, ta cùng với Ngài nói chuyện với nhau bằng
tâm ý chứ không phải bằng lời nói, các ngươi không biết Tha Tâm Thông (tức là thần
thông về sự hiểu tâm ý kẻ khác) vua mới giải thích như sau:
Ta chỉ tay lên trời, ý hỏi rằng ngài biết chuyện trên trời không? Có thông thiên thông?
Ngài chỉ tay xuống đất, ý nói là chẳng những thông thiên, mà còn triệt địa nữa
...
Ta đưa hai ngón tay rồi ba ngón
tay, ý ta hỏi ở đây có đủ Phật Pháp Tăng hay chỉ có Pháp và Tăng
...
Như các ngươi đã biết vị thị giả
ấy đúng là đạo pháp cao thâm đến mức không lường được
...
Đức vua chỉ trước bụng ý vua hỏi
con làm giày bằng da bụng phải không? Con lắc đầu và chỉ sau lưng, ý trả lời vua
rằng không phải, làm giày bằng da lưng
...

Đức vua đưa ba ngón tay rồi hai ngón, ý vua muốn hỏi con một ngày làm ba đôi phải
không? Hay là hai đôi? Con lắc đầu đưa một ngón tay trả lời: trước sau gì cũng một
ngón tay thôi, ý con muốn nói, không phải, mỗi ngày chỉ làm được một đôi giày thôi!
Nhất định là một đôi, chứ không thể hơn được
...
Thấy con ứng đối
rõ ràng bằng dấu, vua ưng bụng và nể phục mới quỳ xuống lạy và cúng dường
...
Nếu trong dịp khác danh tiếng chư tăng sẽ còn gì
...


***

7
...
Đất, nước, gió, núi cao, biển rộng, sông dài thì do thời tiết
nóng lạnh tạo thành
...




Bạch ngài, cái chi không chịu hệ thống của thiện ác thời tiết và nhân?
Tâu đại vương
...


Ta không thể nói: Niết Bàn đã có hoặc sẽ có, có thể chấp lấy được, hoặc không được,
là quá khứ, hiện tại, hoặc vị lai, là có thể hiểu biết được bằng mắt, mũi, tai, lưỡi, thân ý
...
Tuy nhiên các bậc hiền minh có thể liễu ngộ được bằng
Thánh Đạo Tâm
...



Bạch ngài, xin ngài thí dụ
...

Xin Đại Vương chỉ cho nhà sư xem với
...

Tâu Đại Vương, nếu Đại Vương không thể chỉ cho nhà sư xem được thì hẳn là không
có gió thật sao?
Xin Đại Vương hiểu cho rằng Niết Bàn có thật sự, mặc dù nhà sư không thể chỉ cho
Đại Vương thấy được
...


Đức vua hỏi tiếp:




Sự dục tắt là Niết Bàn phải không?
Tâu đại Vương, Đức Phật có thuyết cho thầy Tỳ Khưu Mahanama nghe như vầy:
Này Mahanama bậc Thinh Văn sau khi đã thỏa mãn với Pháp bảo rồi các bậc ấy
không còn ưa thích trong ngoại căn là: Mắt, mũi, tai, lưỡi, thân và nội căn là nhãn
thức, thiệt thức, vị thức, xúc thức của chính mình và của chúng sinh
...
Một khi ái
dục đã tắt lịm thì sự mê chấp rằng ta, thân của chính mình, của chúng sinh từ từ tắt theo
...

Hiện hữu không còn thì sinh, lão, bệnh, tử, thương xa, ghét gần, sự thất vọng, sự bực bội
nóng nảy trong tâm sẽ không còn
...

Tư cách dụt tắt như thế Như Lai gọi là Niết Bàn vậy
Tiếng nói: “Giải Thoát” là sự giải thoát các phiền não đã phát sinh trong tâm, không còn
dư sót: tức là sự liễu chứng được quả vị Niết Bàn
...


***

8
...
Những tiếng chim ríu rít hòa lên
khúc nhạc tưng bừng
...

Đây chính là Đức Phật
...
Đức Phật đến nhà ông Đế Đô, một nhà có tiếng giàu sang nhất, nhưng cũng không
kém phần ích kỷ
...
Nanh nhe khỏi mồm như sẵn sàng một thứ khí giới trắng nhọn vô
cùng ghê tởm
...
Không
chút sợ hãi, hay hoảng hốt, Ngài thản nhiên ôn tồn nói: “Ngươi hãy im”
...
Rất dịu dàng, Ngài đưa tay đỡ hai
chân trước chó âu yếm thốt ra những lời đầy thương hại: “Ngươi hãy bớt nóng, ta đã hiểu,
ngươi chính là mẹ của chủ nhà này, kiếp trước ngươi hất hung ác tham lam, lâu đài nguy
nga đây, tất cả châu báu đây chính ngươi đã xây dựng trên bao nhiêu mồ hôi nước mắt của
mọi người, ngươi đã không chút từ tâm thẳng tay đục khoét tận xương tủy, từ những người
giầu cho đến kẻ bần cùng, mãi đến giờ phút trước khi tắt thở, ngươi vẫn còn tâm địa độc ác
và tiếc nuối những của cải nên ngươi đã bị sanh vào đường thú vật
...

Kim ngôn của đức Thế Tôn đã vang vọng như tiếng Thần chung đánh thức chủng
tử thiện tâm
...
Từ đó,
chó ta âm thầm nằm gục đầu sám hối không màng ăn uống, chỉ mong thoát khỏi nghiệp
chướng lầm than
...
Rất dịu dàng, Đức Thích Ca dạy:


Vì mẹ con ngươi nên ta mới nói cho ngươi rõ: tiền kiếp của chó chính là mẹ ngươi
...
Ngươi không tin thì hãy về đào lên
phía dưới giường nơi chó thường nằm sẽ thấy một lọ vàng
...
Quả nhiên khi bới lên một lọ đầy vàng, nhưng vàng ấy không
còn gợi được lòng tham của Đế Đô
...

Ông ôm lấy chó khóc nức nở, vô cùng ăn năn
...
Đức Phật từ bi bảo:
30



Nay ngươi đã biết ăn năn, thế là ngươi có thể trở lại con đường lành, ngươi lại là một
người con có hiếu
...
Đồng thời hãy đem tiền của bố thí cho mọi người, giúp đỡ mọi người qua
từng cơn hoạn nạn, và nhất là nhân lễ tự tứ mà thành tâm cúng dường Tăng chúng,
thiết cúng lễ Vu Lan để hồi phước báu về cho mẹ ngươi, nhờ công đức ấy mới mong
cứu khổ cho mẹ ngươi được
...
Ta không thể cứu vớt được với những kẻ ngoan cố mãi
...

Không lâu, một hôm chó duỗi mình khỏe khoắn trên tấm thảm rồi buông ra một hơi thở
dài vĩnh biệt, nhưng không phải là hơi thở đầy luyến tiếc tham lam muốn bám víu lấy sự
sống thường tình
...
Nhưng chó ấy (mẹ của Đế Đô) sẽ về đâu? Kiếp sau như thế
nào?
Tối hôm sau
...
Chó ta hôm trước chính là mẹ đấy con
...
Thật nhân quả không ai
tránh khỏi “Gieo nhân gì, gặt quả ấy”
...
thôi
mẹ từ biệt con
...
NGƯỜI CHA
Thuở xưa tại thành Thất La Phiệt có một vị Bà La Môn rất giàu, ông có năm người con
trai đã lập gia đình cả họ sống sung sướng trong cảnh hạnh phúc
...
Ông muốn cưới vợ khác để coi sóc gia đình
...

31

Ông cha bằng lòng chia của ra làm năm phần cho năm người con
...

Tình ông già nàng dâu ban đầu còn tử tế sau lần lần phai lạt
...

Ông không thể chịu nỗi tình cảnh ấy cùng cực ông phải đi xin ăn, thật là khổ sở
...
Người bạn đáp:


Tôi không biết phương thế nào cứu giúp bạn được
...


Ông Bà La Môn ấy nghe lời vào hầu Phật và cầu xin Đức Phật chỉ phương pháp nào khỏi
khổ về hoàn cảnh ông
...
như vầy
...
Sau khi nghe pháp xong, tín đồ vừa đứng dậy ra về
...
Có lẽ quý vị không quên già này, trước đây là một vị phú hộ trong thành Thất La
Phiệt này
...
Đức vua và công chúng nổi giận muốn
trừng trị ngay những người con bất hiếu kia
...

Khi đem cha về, mấy người vợ tỏ vẻ bất bình muốn xua đuổi lần nữa
...


Từ đó năm nàng dâu không dám nói nữa và người cha được phụng dưỡng đàng hoàng
...

Và điều thứ hai là: Đức Thế Tôn chẳng những cứu người khỏi vòng luân hồi mà riêng
về vật chất ngài cũng tìm phương tế độ
...

Sau khi ngài đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, ngài ngự lên cõi trời Đao
Lợi độ cho mẹ là Hoàng hậu Ma Da đắc quả Tu Đà Hườn, và về kinh đô Ca Tì La Vệ, độ
cho vua cha là Tịnh Phạn đắc quả A La Hán và sau khi vua cha thăng hà tự tay ngài lo tẩn
liệm và thân hành khiêng quan tài đến Trà Tỳ hỏa táng
...

***

10
...
Vì cha mẹ già nên không thấy đường
để đi kiếm ăn được, nên phải nhờ đến con đi kiếm mồi về nuôi, và vải đem về làm ổ cho ấm
...
Anh thợ
săn liền hỏi:


Ta nghe nói loài Kên Kên mắt trông xa ngàn dặm, sao ngươi để cho mắc bẫy của ta?

Kên Kên con trả lời:


Thưa ông, thật mắt tôi thấy xa, nhưng khi nghiệp nó đến rồi, không có tài lực nào mà
ngăn nó được khiến cho mắt sáng thành ra vô dụng
...
Song tôi thương hại cha mẹ tôi mù lòa, già cả không
ai nuôi dưỡng, rồi cũng phải chết, mà cái chết đáng thương là chết đói
...
Kên
Kên con này là tiền thân của Đức Bổn Sư Thích Ca
...

Người có hiếu thảo có thể làm cho những người dù hạng nào cũng quý mến được
...
– CHÀNG SỨ GIẢ GẶP VẬN HÊN
Ngày xưa có một phụ nữ hoang dâm vô độ
...
Nhưng đã nhiều lần, nàng chưa tìm ra phương cách làm thỏa mãn con người vô
đạo ấy của nàng được
...
Nàng ngấm ngầm làm những viên thuốc độc rồi ra vẻ âu
yếm nói với chồng:


“Thưa anh, nay anh đi xa, vợ chồng cách trở quan san không có em một bên, em sợ
anh đi có lúc bị đói thiếu, em làm được năm trăm viên thuốc “hoan hỷ” gọi là chút
quà tặng để tiễn anh lên đường
...


Anh chồng tin lời vợ vui vẻ ra đi
...

Trong đêm thanh vắng, nằm nghỉ trong rừng, sợ thú dữ, nhà sứ giả mới trèo lên cây ẩn núp,
trong lúc vội vã anh quên gói thuốc “hoan hỷ” dưới gốc cây
...
Suốt ngày đêm xông pha mệt nhọc về đến đấy đều
đói, cả bọn vừa thấy gói thuốc “hoan hỷ” dưới gốc cây liền lấy chia nhau mỗi người ăn một
viên, ăn xong trong chốt lát năm trăm người đều ngã lăn ra chết hết, vì thuốc độc quá mạnh
...
Qua sáng hôm sau, anh ở trên cây
xuống trông thấy bọn cướp chết hết dưới gốc cây, mới giả vờ đem tên bắn, đem đao chém
vào những thây chết, rồi thu lấy ngựa, của báu, đi vội vào nước kia
...

Quốc vương nước kia hỏi:



Ông là người nước nào, ở đâu lại bắt được những ngựa này?
Tôi là người nước láng giềng , giữa đường gặp bọn cướp, biết là chúng vừa cướp của
nhà vua, tôi với bọn này đánh chém nhau, cuối cùng tôi giết chết được cả năm trăm
đứa ở dưới gốc cây
...
Nếu ngài không tin, xin ngài sai người thân tín đến tận
chỗ xem có đúng không?

Quốc vương liền sai người đến xem, và thấy quả thực vậy
...
Về đến kinh đô, quốc vương phong thưởng tước
vị cao, tặng nhiều châu báu cho anh
...
Quốc vương phong tước vụ cho hắn hơn cả các cựu thần dân công cứu
nước xưa nay
...


Những cựu thần dân đều im lặng không ai dám lên tiếng đối địch cả
...

Sau đó không lâu, ở một nơi đồng ruộng nọ có một con sư tử rất dữ, chận đường bắt
người, làm ngăn trở sự giao thông của quốc gia
...
Bàn xong, vào tâu vua, vua ưng
chịu chuẩn cấp binh khí cho người ấy đi
...
Tuy nhiên không lẽ không tuân lệnh, anh nhận sắc chỉ rồi,
ý chí cương quyết đi đến hang con sư tử
...
Anh hoảng kinh vội trèo lên cây, sư tử há miệng ngẩng đầu toan tìm cách đớp
mồi
...
Sư tử bị cây kiếm
đâm vào họng chết ngay
...

Chú thích: Viên thuốc “hoan hỷ” của người vợ là chỉ vào “bất tịnh thí” (của bố thí trong
sạch)
...
Gặp quốc vương chỉ vào việc gặp được thánh hiền
...
Người kia khích các cựu thần, không ai địch cùng
mình được là chỉ về phía ác ma, dứt phiền não, điều phục được ác ma, được phong thưởng
đạo quả, không chấp trước, thường khiếp sợ là chỉ cho lẽ thường hay dùng yếu thế chế ngự
mạnh
vậy
...
- GIẢI OAN NGHIỆP CHƯỚNG
...
Lúc ông sắp đi
ngang dưới một bóng cây lớn thì trên cây có một bầy quạ đang đậu
...


Trong đoàn có một con cản rằng:


Không nên, không nên! Người này là vị đại thần trong cung lớn nhất ở xứ này
...


Con qua kia không nghe lời, đợi lúc ông đi ngang dưới chân liền đại tiện ngay trên đầu
ông
...


Từ đó ông luôn luôn tìm cách để trả thù loại quạ
...
Đức vua buồn rầu nên phán hỏi các quan xem vị nào có phương pháp gì
khác lạ trị khỏi bệnh cho voi chăng?
Vị đại thần kia vừa gặp dịp trả thù mới tâu rằng:


Chỉ có mỡ quạ mới trị được bệnh ấy
...

Lúc ấy loài quạ bị giết khắp nơi nhiều không kể xiết
...

Khi đức vua lâm triều quạ ta bay ngay vào và chun xuống nằm dưới gầm bàn của đức vua
...

Sau khi nghỉ khỏe, quạ bay ra đứng trước bàn cúi đầu chào kính cẩn và tâu rằng:


Xin hoàng thượng mở lòng dung thứ cho loài quạ vô tội
...
Hôm ấy một đồng
loại chúng tôi đứng trên cây cao thấy vị quan đầu triều đi ngang qua dưới bóng cây
sanh lòng nghịch ngợm mà phóng uế trên đầu ông ta
...


Đây là dịp ông ta trả thù vậy
...


36

Thật ra loài quạ không bao giờ có mỡ, dù có mỡ cũng không trị được bệnh của tượng
...

Đức vua nghe qua hiểu rõ tự sự bèn truyền chỉ tha cho loài quạ còn sống sót và không bắt
nữa
...

***

13
...
Kết bạn thâm giao với ông Mãn Tài trưởng
giả ở thành Mãn Phú
...

Họ A có một con gái út, họ Mãn muốn hỏi về làm dâu; nhưng họ A còn lưỡng lự chưa
quyết, vì đôi bên khác tín ngưỡng
...
Phật dạy cứ gả con gái cho họ đi
...

Nhưng chiếu theo luật của tiểu quốc này người trong nước không được cưới người nước
ngoài về làm dâu
...

Ông Mãn Phú biết vậy nhưng vì quý bạn thương dâu nên nhận lễ rước dâu, ông bày luôn
bữa tiệc cúng dường sáu ngàn ông Phạm Chí
...
Cả
sáu ngàn ông mình để trần nửa thân tiến vào nhà họ Mãn
...

Cô dâu bất tuân lệnh và nói:


Tôi không thể lễ những kẻ trần mình
...
Các ông Bà La Môn kia là những kẻ không biết hổ thẹn để thân
trần như vậy tôi không muốn lạy
...
Ông Mãn Tài rất buồn rầu
thường lên lầu cao nằm mà lo nghĩ đến việc đáng tiếc vừa xảy ra
...

37

Ông Tu Bạt nói:


Bậc thầy của cô dâu mới này oai đức cao cả lắm, ông đừng buồn làm chi, để tôi thuật
ông nghe chuyện này
...

Một lát sau tôi thấy có ông niên thiếu Tỳ Khưu đến thì Thần ao ra nghinh đón và mời
ngồi lên một tòa bằng vàng mà lễ bái rất cung kính
...
Ông Mãn Tài nghe rất
vui mừng và đòi cô dâu lên hỏi:


Nay cha muốn mời thầy của con về nhà cung phụng mà cha không hiểu phép thỉnh
mời như thế nào
...

Nàng dâu rất vui mừng vâng lời ngay
...


Đức Phật thông cảm hoàn cảnh đệ tử, lên đường ngay
...

Đến cửa, trưởng giả, và cô dâu ra lễ rước Phật cùng chư tăng
...
” Thế rồi họ bỏ nước đi hết
...


***

14
...
Có một đêm chúng
nó tự hỏi nhau rằng mọi cái khổ trong đời thứ nào nặng hơn?
Chim quạ nhọn mồm có ý kiến trước:


Đói khát lá khổ hơn hết, những khi đói khát thân ốm, mắt mờ, lòng dạ chẳng yên, trí
óc lúc nào cũng lo nghĩ
...
Chúng ta tán thân thất mạng cũng chỉ vì đói khát
...
Mỗi khi sắc dục bức bách thì
không chỗ nào là không nghĩ tới
...
Nó báo hại
hơn cả, chết thì an thân đã đành mà nếu sống tên tuổi bị chôn vùi kẻ khác đều khinh
dễ
...
Giận dữ trong chốc lát mà di hại muôn
đời
...
Lắm khi bị sa hầm, sụp
hố, sa lầy, chân không còn cử động được, nguy hiểm đến cả tính mạng nữa là khác
...
Thế nên so với ý kiến các bạn tôi
cho sự kinh hãi lo sợ là nguy hiểm nặng nề hơn hết
...
Ngài mời bốn con vật lại gần
rồi nói:


Những điều các ngươi vừa nói đó chỉ là thứ khổ ngọn ngành, chứ chưa xét tới cái khổ
cội gốc
...
Thân là cái món đồ để đựng
mọi thứ khổ, cho nên ta bỏ tục xuất gia tu Đạo, chính vì muốn tiêu diệt ý tưởng xằng
xiên, chẳng tham đắm thân tứ đại giả dối mục đích là dứt nguồn gốc đau khổ vậy
...
- ĐA NGÔN HẠI THẦN KHẨU
39

Thưở xưa tại kinh đô Ba La Nại có một người hai chân đau bại, nhưng có tài búng sạn
thật giỏi
...

Ngày nọ đức Vua ngự trong vườn thượng uyển đi ngang qua chỗ ấy, những đứa trẻ kinh
sợ bỏ chạy, chỉ còn anh què ở lại
...
Quan ấy biết rõ mới tâu qua mọi lẽ
...
Người có phương kế chi làm cho ông
không nói nhiều được không?

Anh què đáp:


Tâu Hoàng Thượng! nếu có vài cân phẩn dê, hạ thần có phương thế làm được
...
Đoạn ngài truyền hội trào bàn luận việc quốc
gia
...
Ham nói quá ông vội
nuốt viên phân dê để kịp nói nữa mà không cần biết mùi vị lạ gì!
Đến chừng đức vua trông thấy anh què búng hết cân phẩn dê
...
Vậy khanh nên về
uống thuốc xổ đi
...

Đức vua mới phán:


Nhờ người bại này mà lỗ tai trẫm đỡ bực
...


Một vị đại thần thấy thế lấy làm hoan hỷ mới tâu rằng:


Tâu Đại Vương, trong đời này dù nghề nào cũng trọng, người đời cũng cần phải học
...


Rồi vị đại thần ấy nói một câu kệ rằng:
40



“Tất cả nghề lương thiện làm cho ta được kết quả tốt mà áp dụng cho phải thời, phải
chỗ, dù nghề mọn đến đâu cũng đem sự an vui no đủ đến cho chúng ta
...


***

16
...

Một hôm gặp Đức Phật Độc Giác, hắn ta bèn nghĩ:


Nếu ta thử tài với người khác, sẽ bị cha mẹ, vợ con, anh em họ kiện thưa
...


Nghĩ thế, hắn mới búng một viên sạn vào lỗ tai Đức Phật Độc Giác
...
Bữa nọ, hắn tìm đến tư thất của
ngài, thấy tín đồ bận lo hỏa táng và than khóc hắn mới khoe:


Mấy người biết không? Ngài mà chết đây là do tài búng sạn của tôi
...
Vì tội giết chết Đức Phật nên hắn bị sa vào ác đạo cuối cùng của Địa ngục
...
Vậy chúng ta hãy nên chọn nghề nào chánh nghiệp, chánh mạng
mà làm thì mới được an lành, bền lâu
...
- LẤY ĐẠO ĐỨC DẸP
QUÂN HUNG NÔ
MỘT KIẾP ĐI ĐÀY
41

Thuở xưa có một vị quan văn hiền đức bị kẻ nịnh âm mưu hãm hại nên xúi dục nhà vua
xuống chiếu sai ngài cầm binh dẹp quân Hung Nô
...

Khi quân binh đi đến nơi, đóng trại xong, ngài truyền lệnh treo cờ, rải giấy khắp nơi nội
dung như sau:
“Phải ăn và sống nhưng đừng sát sinh trộm cướp”
...
Vậy nên ăn là vấn đề rất liên quan cần thiết
...

Ngài dạy rằng: nhân loại phải biết trọng nghĩa khinh tài
...
Kia như một bà nọ sinh ra một đứa con, cái sống có trước, rồi sau đó mới nói
đến sự lo ăn
...
Nhưng chúng ta cũng nên biết thêm rằng: no quá là cũng phải
chết
...
Người mà biết sống biết ăn để
sống hay biết sống để ăn, thì kẻ ấy há vì miếng ăn, mà phải chết hết với nhau sao? Vả lại
chúng ta ăn là để sống chớ phải nào sống để ăn
...

Người ta đừng coi tài quá trọng khinh mạng hơn rơm cỏ, chúng ta phải biết rằng:


Mạng người quý báu, cái sống khó tìm, khi chết đi đâu còn sống lại, chớ còn của cải
trước sau mau chậm có ngày ta kiếm được
...
Ta muốn ăn là phải giúp
cho mọi người có ăn
...


MỘT LỘC BÌNH, MỘT MẠNG NGƯỜI
“Thuở xưa có một vị vua nước lớn, được một nước chư hầu cống sứ mười tám cái lục
bình quý rất to
...
Khi ấy có một vị quan đại thần quỳ xuống
tâu:


Tâu Hoàng Thượng! xin Ngài hãy xá tội cho quan thái giám, kẻ hạ thần đây có thể
hàn dính cái lục bình ấy lại y như xưa, và không còn dấu vết nứt răn chi cả
...
Đến gần tủ, ông
bèn xô cái tủ ngã xuống, đỗ vỡ cả mười bảy cái kia
...


Thế mà không dè chỉ vì một cái lục bình bể, mà nhà vua lại thất đức mê tâm, muốn giết
chết một mạng người để phải mất lòng thiên hạ
...
Hôm nay, nếu hạ thần còn để mười
bảy cái lục bình lại thì sẽ còn phải thêm mười bảy mạng người vô tội như kia nữa
...
Có như
thế nhà vua mới khỏi mang tiếng là: “Không sinh ra người được mà sao lại nỡ giết người,
khinh mạng người rẻ hơn đồ vật”
...
Và từ đó về sau đức vua hằng lo trau tâm gìn đức, trở nên một vị
vua nhân từ, đức hạnh thiên hạ khắp nơi thảy đều phục tùng
...

Sau đó ông truyền đem phân nửa số của cải, tiền lương giúp đỡ dân đói rách, nóng lạnh
bịnh hoạn
...

Ông lại giúp vốn cho kẻ làm ăn, nhất thiết cái gì ông bố thí ra đều không cần vụ lợi
...
Ông lại bày ra sự cưới gả
với nhau để cho hai sắc dân hòa hợp thương yêu mật thiết từ vật chất lẫn tinh thần tạo thành
một sắc dân thứ ba mới lạ
...
Ông
lại tôn thờ cả hai tôn giáo của hai bên: Ông bày cất ra nhiều chùa, đền thờ, nhà giảng, cho
khắp nơi dân hung nô đến nghe truyền đạo và học hỏi
...
Ai muốn theo tu đạo giáo bên nào cũng được, ai muốn giữ đạo của
mình tự ý và không ai được chỉ trích lẫn nhau mà tốt hơn là mỗi người hãy ráng học thêm
những giáo lý của nhau
...
Họ bỏ cả gia đình xã hội, cha mẹ, vua, quan của họ
...
Ông rất ưa thích cái nghèo, đủ ăn để sống, ông ra sức giúp
43

đỡ người nghèo
...

Ông lại tu học theo Pháp Phật, ông tôn kính đạo giáo của người, ông thường đem đạo lý
chỉ giải cho mọi người
...
Ông rất quý trọng sự bình
đẳng
...
Ông khuyến khích mọi người nâng cao gương
đức hạnh, mộ tụ, ham học do đó mà các quan, vua Hung nô cũng tới lui thân mật với ông
...

Chẳng bao lâu, miền Hung nô ấy đều theo ông, theo bằng đạo đức của ông
...

Người ta kính trọng ông vì bởi ông có đức lớn trong sạch hơn hết
...

Ông không sát sanh, ông không hề biết đến trộm cắp, không dâm dục, không nói dối,
khoe khoang đâm thọc, chửi rủa, không uống rượu
...

Ông ăn Bát quan trai ngày một ngọ, và không chứa giữ bạc tiền, của quý
...
Ông là
người tốt đẹp, xinh lịch tư cách về tinh thần, cho nên ai cũng đều tôn quý ông
...
Ông thành công làm cho ta và cả
người, ăn và sống phải như nhau, bằng nhau, biết sống để ăn và biết ăn để sống
...
Trọn đời ông, ông tạo lập không biết bao nhiêu xứ thiên đường cho
nhân loại, nơi những chỗ có chiến tranh
...

Vua phong vương tước cho ông và cho cai quản luôn đất nước ấy, ông cũng không chịu
lãnh, vì ông chỉ muốn thong thả rảnh rang tu học và giúp đỡ chỉ bảo cho người, chớ không
màng danh lợi
...


18
...
Vợ chồng mới cưới rất
yêu kính nhau
...


Người vợ vào nhà vừa giở nắp lu đầy rượu nàng chợt thấy bóng mình hiện ở trong lu liền
cho là có người đàn bà khác đã ẩn tự bao giờ, nổi tam bành lục tặc, chạy ra lớn tiếng với
chồng:


Anh đã chứa dấu người đàn bà trong lu rượu còn cưới tôi về làm chi nữa? Vào mà ân
ái với hắn, tôi về đây!
...
Lúc ấy có vị Tỳ Khưu đi ngang qua nghe được
nguyên do việc đánh lộn, đến xem thử mới biết là đánh nhau vì cái bóng trong lu, lòng bùi
ngùi tự than rằng:


“Người đời quá dại khờ cho cái giả là thật”

Ngài thương hại cho hai vợ chồng trẻ, rồi vào nhà can gián, dùng đủ lời hay lẽ phải
...
Ông liền nói:


Ta sẽ vì các người mà bắt người trong lu ra cho
...
Cả chồng lẫn vợ nhìn vào
mảnh lu bể không còn thấy bóng người nào nữa
...


***

19
...
Lúc ấy có một thanh niên tự xưng là mình to gan, dạn dĩ và bảo
với mọi người rằng:
45



Tôi dám vào trong nhà hoang ấy ngủ một đêm cho bà con biết
...


Lát sau, có một chàng nữa ở xóm khác, thường ngày tự cho mình là gan dạ và mạnh bạo
hơn ai hết; cũng nghe nói trong nhà hoang có quỷ, anh liền vác dùi đến và xô cửa vào đánh
...
Trái lại, anh ở ngoài lại quả quyết trong nhà có quỷ thật, nên dùng tận lực
đánh vào
...

Mọi người ở đời cũng vậy, do nhân duyên mà tạm gặp nhau thật chẳng có cái ta, nhưng
các chúng sinh nào có biết! Vì thế nên ai ai cũng ngang chấp là có ta mới cưỡng sanh ra
tranh tụng, đâm chém
...

Ta hãy noi gương các vị Sa môn vì các ngài xem cái thân không đáng kể, “Chỉ dùng nó
để phụng hành đạo pháp mà thôi”
Khi ta quan niệm được như thế, cuộc đời ta sẽ không còn gì ràng buộc, những tật xấu xa
sẽ gội sạch, và con đường đến Niết Bàn không còn bao xa nữa
...
– CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC
Tại xứ Hungara Avanti gần núi Apavata có một Thiện nam tên la Sonati
...
Ngày kia, ông xin phép Thầy tế độ đi đến Kỳ
Viên Tịnh Xá hầu Phật
...
Ngày kia
Đức Thế Tôn bảo ngài đọc mười sáu bài kệ, đọc theo cách ta ngâm thơ
...
Vì vậy nên ngài Sonati được Chư thiên và Phạm thiên
ca tụng
...



Lành thay, lành thay
...

Ngài là ai?
Tôi là Chư thiên ở tại nhà này
Tại sao từ trước đến nay Ngài không hoan hô cầu chúc cho tôi như vậy?
Hôm nay đâu phải tôi hoan hô bà
Nếu vậy, Ngài hoan hô ai?
Tôi hoan hô vị đại đức Sonati là con bà
...
Sau khi dứt lời Pháp, Đức Thế Tôn ca tụng con bà nên tôi ca tụng ngài và hoan
hô theo lời của Đấng Giác Ngộ
...


Bà tín nữ nghe qua lấy làm thỏa thích đắc được năm điều hỷ lạc và nghĩ rằng:
“Nếu con ta được ở chung tư thất với Đức Thế Tôn và dám thuyết pháp cho ngài nghe thì
cũng có thể thuyết cho ta nghe
...

Sau đó không lâu ngài Sonati về xứ đi khất thực
...
Đoạn bà thuật lại và nói thêm rằng:
Mẹ nghĩ: nếu con có thể thuyết cho Đức Thế Tôn nghe được, vậy con cũng nên
thuyết cho mẹ nghe với
...

Bà nghĩ rằng: trước khi nghe pháp ta phải cúng dường cho chư tăng trước, nên bà cho tôi
tớ trong nhà sắm sang vật thực quý giá đem vào chùa trai tăng sẵn dịp nghe thuyết pháp
luôn
...
Vì nhà giàu, sự
trông nom chu đáo nên chúng không có dịp, nay nhân khi bà vào chùa nên bọn cướp tìm
cách vào nhà
...


Bà bình tĩnh trả lời:


Bọn cướp ấy tìm được tiền trong nhà thì người cứ để chúng lấy hết đi cho ta yên tĩnh
nghe pháp
...
Người tớ
gái lại đến kêu bà nữa
...


Bọn cướp lấy hết bạc lại đến kho vàng
...
Bà nói:


Ồ! Cái con nhỏ này, ngươi đến làm rộn ta nhiều lần rồi, ta đã bảo rằng: bọn cướp
muốn lấy bao nhiêu thì lấy để cho ta nghe pháp, người đừng đến làm hại sự nghe
pháp của ta, nếu còn đến nữa sẽ bị đòn, người hãy về đi
...
Hắn mới nghĩ rằng:
“Nếu chúng ta cướp bóc tài sản của người như thế này chắc không tránh nổi lưới trời và
có ngày sẽ bị tang thương đau khổ
...



“Các ngươi nên đem đồ đạc của bà tín nữ này để lại chỗ củ
...


Chỉ trong chốc lát nào tiền bạc, của sang vậy quý của thân mẫu ngài Sonati đều được trả
lại chỗ cũ, không mất mát một đồng hay một vật gì
...

Chúng rất ngạc nhiên không hiểu sao nhà bà giàu có, mà nghe cướp đến nhà, lại bình tĩnh
được, không la cầu cứu đã đành mà cũng chẳng buồn về nhà thăm qua tự sự ra sao
...

Vậy thì thuyết pháp ra thế nào mà có mãnh lực kỳ lạ như thế?
Một tên xướng ra, cả trăm tên hưởng ứng
...
Trời vừa hừng đông thì vừa dứt thời pháp
...


Bà lấy làm lạ, nhất là khi biết tên này là tướng cướp vừa phá phách nhà mình nhưng vẫn
than nhiên hỏi:



Chuyện gì thế?
Thưa bà, tôi là đứa oán ghét bà định đến vùng này giết bà xong cướp cả gia sản bà
hôm nay
...



Nếu vậy ta miễn lỗi cho con
...
Bà cũng nói như
trước, lời nói thêm nhẹ nhàng an ủi
...


Bà tín nữ nhận lời và nói với Đại đức Sonati rằng:


Con ơi, những tướng cướp này trong sạch với con, muốn xuất gia theo con, vậy con
hãy vui lòng tế độ
...

Đức Thế Tôn ở cách đó 120 do tuần
...
Mỗi lần Đức
Thế Tôn thuyết một câu kệ thì có một trăm vị tỳ khưu đắc A La Hán quả bay về Đức Thế
Tôn và từ đây họ đã đến được con đường hạnh phúc vĩnh cửu
...
- TÌNH YÊU VÀ NGHIỆP CHƯỚNG
Thuở xưa có một ông trưởng giả nọ sang giàu hơn thiên hạ
...
Bằng mọi thứ sung sướng mà tiền của đã đưa đến cho ông
...

49

Bà vợ thứ nhất được ông yêu mến hơn hết
...
Thậm chí lúc đi đứng nghỉ ngơi, nằm ngồi, làm lụng v
...
lúc nào cũng có thiếp có
chàng
...
Ông chăm sóc luôn cả món ăn đồ mặc cho nàng, sắm
sửa gì trong gia đình thì ông lo sắm cho cô ta trước
...

Hai người ăn ở với nhau như bát nước đầy
...

Nhờ thế mà hai vợ chồng chưa từng có lời qua tiếng lại
...
Nàng lo công việc gia đình ở phòng trong, ít khi gặp
mặt chồng
...
Sau hạnh phút ngắn ngủi ấy nàng lại trở về nhiệm vụ với vẻ mặt buồn thiu
thỉu
...
Năm thì mười họa có gần gũi
được chồng, nàng mới tạm gọi là cuộc đời đáng sống còn ngoài ra kiếp sống nàng cô độc
lạnh lùng làm sao!
...

Cô thứ tư: một kẻ tôi đòi trá hình không hơn, không kém
...
Nặng nhọc khó khăn, nàng không oán trách,
chồng đối xử theo kẻ trọc phú bần tiện, nàng cũng chẳng cần
...

Bỗng một hôm ông trưởng giả lâm bệnh nặng
...
Nhận thấy giờ lâm chung sắp đến, ông gọi người vợ thứ
nhất đến nói:


Ta sắp chết đây, em phải theo ta về bên kia cõi đời cho có mặt nhau, lúc tử như lúc
sinh
...


Ông chồng ngạc nhiên hỏi:


Suốt đời ta rất yêu mến người, chiều theo mọi ý muốn của ngươi, sao bây giờ lại
không đi theo ta? Trả nghĩa ta như thế ư?
50



Anh có lòng yêu mến tôi thật, nhưng tôi không thể nào đi theo anh được
...


Ông chồng buồn bực gọi người vợ thứ hai và cũng bảo nàng chết theo mình
...
Ta phải chịu lạnh chịu nóng, chịu đói chịu khát vì ngươi
...
Vì nó thì anh
trách nó chớ trách gì tôi? Anh cần đến tôi, chớ tôi có cần gì đến anh đâu mà anh đem
chuyện gian khổ nói với tôi? Nếu anh chẳng thèm thuồng thân xác tôi thì anh đến tôi
làm gì? Chuyện ấy tôi không mang ơn mắc nợ gì anh cả
...

Người vợ thứ ba nói:


Lâu nay tôi đã chịu ơn huệ của anh, nay đến ngày cuối cùng của anh, tình vợ chồng
dù sao cũng đậm đà nồng thắm rủi bề nào tôi sẽ tiễn đưa anh ra đến ngoài thành mà
thôi chớ chắc không thể nào đi hơn đến chỗ anh an giấc nghìn thu được
...
Trong số bốn vợ thì ba bà đã từ chối niềm chung thủy với mình
...

Cô hầu trả lời:


Tôi xuất thân con gái, nhỏ ở với cha, thành gia thất ở với chồng
...
Đối
với tôi tính mạng và cả cuộc đời tôi trao cả cho anh
...


*
51

Ba người vợ trước là những người ý hiệp, tâm đầu với chồng mà không thể đi theo được
...

Câu chuyện xảy ra làm ai ai cũng ngạc nhiên không sao hiểu tâm địa của mỗi hạng người
...
Ngài dạy: Người vợ thứ nhất dụ cho thân
người
...
Đến khi chết, của cải
hoàn lại cho đời, nào có chịu đi theo!?
Vợ thứ ba là dụ cho cha mẹ vợ con, anh em, bạn bè tôi tớ v
...
Lúc sanh thời lấy ân nghĩa
tình ái cùng nhau tưởng mến, đến khi chết, họ khóc lóc thảm thiết, thương nhớ nhau thật
đấy nhưng cũng chỉ tiễn đưa đến ngoài thành tức nghĩa địa là cùng
...

Nhưng người vợ thứ tư lại khác, vợ thứ tư là tâm ý của con người
...
Vì thế ta phải tự mình
thẳng tâm chánh ý
...
- DUỚI BÓNG TAM QUAN
Sáng hôm ấy kinh thành Xá Vệ tưng bừng rộn rịp khác hẳn mọi hôm
...

Các cửa hàng đông nghẹt kẻ bán người mua
...
Lại thêm tiếng xì xào của khách qua đường chuyện vãn
nhau, tiếng trẻ em đùa giỡn, cùng muôn ngàn tiếng động không biết xuất phát tự đâu
...

Nhưng đi sâu vào các đường hẻm thì những cảnh sống hình như vui tươi giàu mạnh của
số đông người trong hai giai cấp Sát Đế Lợi và Bà La Môn ấy không còn nữa, mà những
cảnh bần cùng, đen tối của hai hạng người Tỳ Xá và Chiên Đà La hiện ra quá rõ rệt
...
Xã hội Ấn Độ thời bấy giờ
có bốn giai cấp phân biệt nhau rõ rệt
...
Hai
giới hạ tiện Tỳ Xá và Chiên Đà La là những hạng người suốt đời cam làm thân phận tôi mọi
phục dịch cho hai giai cấp trên
...
trong những đường xá chật
hẹp, từng ngàn túp lều tranh, lá xiêu vẹo thấp lè tè
...

Những đứa bé đùa nhau chọc ghẹo đánh đập trong bùn dơ, nước đọng bên vệ đường
...

Như thường lệ, sáng nay Đức Phật vào thành để giáo hoá
...
Vì ngài là tượng trưng
cho Công bình Huynh đệ
...
Chàng nghĩ rằng mình đã sinh vào nơi thấp kém mà
còn phải làm những việc đê hèn dơ bẩn như thế này nữa, thật là quá vô phước
...


Càng nhìn, lòng chàng càng cảm mộ
...

Đức Phật đã hiểu ngay tâm niệm của Ni Đề qua cử chỉ rụt rè và đôi mắt đăm chiêu
...

Thấy Đức Phật đến Ni Đề hoảng hốt, vì nhận thấy mình bẩn thỉu dơ nhớp không đáng gần
Ngài, phần sợ người bắt tội nên lẩn tránh vào ngõ hẻm khác
...
Sao con lại tránh?

Ni Đề để đôi thùng xuống, run rẩy thưa:


Bạch Ngài! Con không dám, có điều chi dạy bảo, xin ngài ban cho, xin Ngài đừng
đứng gần con
...
Chàng cúi xuống và sắc mặt biến
xanh, ra vẻ sợ sệt lắm, nhưng Đức Phật đã nở nụ cười chan chứa tình thương, an ủi:


Con ơi! Không ai có quyền bắt tội con đâu, vì chính Như Lai đến với con chớ không
phải con tìm đến Như Lai
...

Như Lai muốn nói với con một vài câu chuyện
...

Bạch Thế Tôn! Những đạo sĩ Bà La Môn thường nói chỉ có giai cấp họ và người
trong dòng Sát Đế lợi mới có quyền thờ kính Hiền thánh và có quyền giao thiệp với
người đồng giai cấp, chứ bọn con thuộc dòng hạ tiện không có phép làm những việc
của họ làm và phải trọn đời phục dịch cho họ
...

Thôi giờ đây, con có muốn sống một cuộc đời tươi đẹp và rộng rãi không? Và con muốn
sống gần Như Lai không?
Hai hàng nước mắt Ni Đề ràn rụa chảy dài xuống má
...
Nếu được Ngài cứu độ, thì đó là
phước lành ngàn năm một thuở của con vậy
...
Tắm rửa xong, chàng
theo Ngài trở về tịnh xá Kỳ Hoàn và được Đức Phật thu nạp vào giáo hội cho làm Tỳ Khưu
...

Bấy lâu Ba Tư Nặc Vương bất bình và không hiểu tại sao Đức Phật là người dòng hào thế
Thích Ca mà lại độ đệ tử phần nhiều là những người ở hai giai cấp dưới
...

Càng nghĩ đến việc này, vua Ba Tư Nặc càng thêm tức giận
...

Thương hại thay cho quan niệm sai lầm của ông và của những người trong giai cấp quen
thống trị thiên hạ!
Khi vua Ba Tư Nặc và đoàn tùy tùng vừa đến tam quan tịnh xá Kỳ Hoàn, thấy một vị Tỳ
Khưu đang ngồi trên một tảng đá lớn khâu vá chiếc áo cà sa cũ
...

Nhận lời vị Tỳ Khưu thay vì đi quanh tảng đá vào trong lại xuyên tảng đá và ẩn hình đâu
mất
...

Một lát sau vị Tỳ Khưu lại từ trong tảng đá hiện ra và trả lời cho Ba Tư Nặc Vương:


Mời Đại Vương cứ vào, Đức Thế Tôn đã hứa tiếp Ngài
...

Đảnh lễ Đức Phật xong, Ba Tư Nặc Vương liền hỏi:



Bạch Thế Tôn! Thầy Tỳ Khưu xin cho con vào yết kiến là ai tên gì mà có thần thông
quản đại như vậy? Thầy đã xuyên qua vách cứng một cách nhẹ nhàng tự tại
...


Thấy Ba Tư Nặc Vương im lặng ra chiều suy nghĩ, Đức Phật ôn tồn nói thêm:




Này Đại Vương! Trong đất nhơ nhớp nở lên những cánh hoa đầy hương thơm tinh
khiết Đại Vương có thích và có ưng nói đến không?
Bạch Thế Tôn! Nếu là hoa đẹp hương thơm thì không ai không qúy không muốn hái
để ngấm nghía trang hoàng cả
...

55



Lành thay! Đại Vương quả là người sáng suốt biết quý trọng giá trị chân thật của con
người
...

Bắt đầu từ đó ông vô cùng kính phục tài năng và đức hạnh của Ni Đề, vị tỳ khưu mà ông
gặp dưới bóng tam quan tịnh xá Kỳ Hoàn
...

Đức Phật hứa cho Ba Tư Nặc Vương và các vị cận thần đảnh lễ và trở ra tam quan để trực
tiếp thỉnh vị A La Hán thần thông tự tại khi nãy
...
Trên đường về
ông không ngớt tán thán Đức Phật đấng hiện thân của bình đẳng và giáo hội của ngài là một
đoàn thể đầy đủ tài năng và đức độ
...
- TÌM VỀ CÕI PHẬT
...

Nàng đẹp lắm, tên nàng là Phan-Ta-Ca (Patàcàrà)
...
Thế rồi mối tình thầm lén ấy đã gây cho họ một cảnh ngộ
ngang trái, và lo sợ họ lại càng thông cảm yêu thương nhau hơn
...
Một hôm, nhờ trời tối, hai người
không dám bỏ lỡ dịp tốt, lập tức cải trang và khăn gói lên đường để thực hiện mộng yêu
đương
...
Gần ngày sinh nở, người vợ lo lắng không
biết ai là người đỡ đần săn sóc mình trong những phút đau đớn ngất người
...



Theo em, anh ráng chịu khó đưa em về sinh nở tại nhà ba má và như thế em thấy tin
tưởng nhiều hơn
...

56

Bị từ chối, người vợ nhận thấy mình phải can đảm thực hiện ý nghĩ ấy
...
Thừa cơ hội chồng đi vắng người vợ liền lén bỏ nhà ra đi không
một lời từ giã chòm xóm
...
Nhưng hỡi ôi! Hình bóng người vợ
hiền đã không còn nữa
...

Sực nhớ câu chuyện vợ chồng bàn cãi hôm qua, chàng lật đật theo dấu chân vợ, và đã gặp
lại nàng trên khoảng đường vắng vẻ khá xa
...
Họ đã cực khổ với
nhau trong lúc sinh nở, và nuôi dưỡng hài nhi
...


SINH CON TRONG CẢNH CÔ ĐƠN LẠNH LẼO GIỮA
RỪNG SÂU
...
Chuyến đi này
xảy ra bao cảnh tượng nát lòng, khiến cho ai nghe cũng hết sức cảm động, cơ hồ như có thể
khóc cho người trong cuộc được
...
Trời bắt đầu mưa nặng hột, màn đêm dần dần bao trùm lấy vạn vật, tiếng âm u huyền
bí của rừng xanh và khí lạnh thấu xương gây cho nàng Phan-Ta-Ca một cảnh hãi hùng
khủng khiếp
...
Dường như
định nghiệp quá khắt khe và dụng ý phũ phàng cho kiếp sống của nàng nên trời vẫn mưa,
mặc dù nàng đã lạnh lắm rồi và tiếng khóc gần như thất thanh của hài nhi hòa với tiếng rên
đứt khoảng của đứa con hai tuổi đương ướt át run rẩy ngồi một bên tay không buông mẹ
...

Đến gần sáng người chồng mới theo kịp, chàng vừa tìm ra dấu chân vợ, nhưng phải cảnh
nát lòng khi nhìn thấy người vợ thân yêu đương quằn quại sau cơn sinh nở, và hai đứa con
gần chết lạnh
...

Nhưng rủi thay cho chàng lúc kiếm củi khô, bị một con rắn hổ mổ chết tại chỗ
...
Tình thương chồng đã thúc đẩy nàng đứng lên, lê từng bước chân nặng
nhọc, xiên xẹo vì tê buốt, nàng lần mò theo dấu chân chồng
...


NỬA ĐƯỜNG ĐỨT GÁNH
57

Trước vong linh người chồng bạc phước bỏ thây vì mình một cách oan uổng, nàng PhanTa-Ca cảm thấy trái tim như ngừng hẳn lại, lặng người đi vì quá cảm xúc và kế tiếp những
tiếng khóc than hòa với tiếng nấc nghẹn ngào gây cho cảnh rừng núi làn tử khí lạnh lẽo và
rùng rợn
...

Trên khoảng đường về nhà cha mẹ nàng Phan-Ta-Ca vẫn tiếp tục khóc
...
Nàng chịu tang chồng đã đành song hai trẻ làm chi nên tội mà cũng phải
chịu tang cha! Thật là:
Nhớ chồng thắt đau từng đoạn ruột
...

Bỗng đâu một mạch nước tuy không sâu nhưng rộng lắm và chảy rất mạnh, vì trọn một
đêm trời mưa không dứt hột
...
Thôi thì một liều, ba bảy cũng liều, vả lại có bề nào đi
nữa thì cũng vui lòng để được gặp lại người chồng yêu quý ở bên kia thế giới
...
Sau một hồi lâu vùng vẫy
chống chọi với dòng nước đang cuồn cuộn sóng nàng mới đến được bờ bên kia
...


TỬ THẦN RƯỚC CẢ HAI CON
...
Số là trong khi nàng đang gắng gượng dò dẫm từng
bước một giữa giòng nước, thì một con ó biển to từ đâu xuất hiện lượn tới lượn lui trên
không trung
...
Được mồi
ó bèn vỗ cánh bay lên cao
...
Nhưng ó ta còn nghe biết là
chi, chỉ có dư âm tiếng la thê thảm của nàng đập vào nước vang vào rừng trả lời lại nàng
...

Cùng lúc ấy đứa con lớn đang ngồi đợi mẹ ở bên kia bờ, thấy mẹ đưa tay lên, vừa ngoắc
vừa la tưởng là mẹ kêu bảo nó ra, nên lập tức nhào đại tới trước để rồi bị dòng nước chảy
mạnh cuốn đi mất tích
...
” Và lòng nàng Phan-Ta-Ca tan nát vạn niềm đau
...
Tinh thần nàng đã bị khủng
hoảng
...

Các bạn hình dung thử một người đàn bà sau một ngày sinh nở, lại phải mang một lượt ba
cái tang, tang chồng và tang hai con ấy, đau khổ biết dường nào! Dù cho kiên gan cách mấy
chúng ta cũng phải não lòng thương tâm cho người trong cuộc
...

Kiếp sống đắng cay, định mệnh phũ phàng bấy nhiêu dường như chưa đủ, nên bi kịch còn
tái diễn một màn chót
...
Số là nàng gặp ông lão đi ngược
chiều về phía nàng lúc ấy nàng tỉnh táo một phần, nên gượng hỏi thăm ông lão về tin cha
mẹ được bình an sức khỏe thế nào? Ông lão thở ra, cố nén cơn xúc cảm vì tội nghiệp, ông
đưa tay chỉ làn khói đen đương quyện lên cao ở hướng nhà nàng và nói: Cháu ơi! sao mà
cháu vô phước lắm vậy, ông bà bá hộ đâu còn nữa, vì hồi hôm trận bão quá to đã làm cho
nhà của cháu sụp đổ và ông bà đã thiệt mạng cùng một lượt, hiện giờ làn khói đương quyện
lên ấy là nơi hỏa táng hai ông bà
...
Sau khi tỉnh dậy nàng
đã mất hết trí khôn cởi xé hết quần áo
...

Cơn điên được dịp càng bộc phát nàng nhảy múa ca hát những bài hát điên cuồng, cử chỉ
quá đau khổ của nàng trong khi ấy được lũ trẻ cho là ngộ nghĩnh chúng kéo nhau bao vây
nàng như coi hát bội
...
Số là hôm ấy đức Từ Phụ thấy rõ căn nguyên của nàng có thể đắc qủa Giải
thoát được, Ngài điềm tĩnh chờ đợi mặc dù đã đến giờ thuyết pháp
...

59

ÁNH SÁNG THIÊNG LIÊNG ĐÃ CHIẾU VÀO NGƯỜI
TUYỆT VỌNG
...
Những tiếng xua đuổi gay gắt của
một ít người và cử chỉ trơ trẽn bất chấp của nàng đã khiến đám đông thiện nam tín nữ càng
thêm khó chịu
...

Giữa lúc tình trạng xáo trộn bỗng một thanh âm ngân vang như chuông đồng kéo đại
chúng trở về thực tế
...

Phan-Ta-Ca được thể bèn đi về hướng Đức Phật không ngượng ngùng chi cả
...
Không
hiểu đạo quang có năng lực thế nào mà khiến nàng Phan-Ta-Ca thu hồi lại trí hiểu biết ngay,
và tự hổ thẹn ngồi bẹp xuống tỏ vẻ luống cuống thẹn thùng sợ sệt
...
Được khăn nàng lật đật đắp vào mình phủ phục trước tôn nhan của Đức Đại Từ
Bi
...

Ngài dạy: này Phan-Ta-Ca nước mắt nàng khóc, trong khi đụng chạm với bao cảnh trái
ngang đau khổ, từ vô lượng kiếp đến nay đã nhiều hơn nước biển ở Đại Dương rồi
...

Nàng hãy nghe Như Lai thuyết đây: Và nàng hãy tự cởi mở sợi giây phiền muộn uất ức
trong lòng nàng
...
Vì tối
mê nên nàng đã ngộ nhận tất cả những nhân vật thương yêu trìu mến cho là của nàng, rồi
mê chấp đến bao giờ không còn bảo vệ chúng được nữa hoặc vì một nguyên nhân nào khác
chúng không ở với nàng nữa thì nàng khóc lóc uất ức điên cuồng
...
Như Lai khuyên nàng từ nay hãy sớm giác ngộ để trở về cảnh giới của chư
Phật
...

Sau khi nghe Pháp nàng tỉnh ngộ xin xuất gia cố gắng tu hành về sau đắc được Đạo quả
Giải thoát không còn lặn hụp trong biển lệ sông mê nữa
...
-SANH DIỆT LẼ THƯỜNG
...

Là tiền kiếp của Đức Thế Tôn, Ngài sanh làm một người nông dân Bà La Môn
...
Tuy suốt năm đầu tắt mặt tối hai người vẫn
thương yêu quý trọng nhau như thuở ban đầu
...
Gia đình sống trong cảnh hạnh
phúc đẩy đủ
...

Hằng ngày từ sáng sớm đến chiều tối hai cha con lo việc đồng áng
...

Có một điều đáng chú ý là ông hằng khuyên nhắc gia quyến nên niệm tưởng đề mục chết
cho thường xuyên
...

Một hôm nọ vào lúc nửa buổi ông Bà La Môn đang đánh trâu bừa thửa ruộng còn cậu con
trai đốt cỏ trên bờ
...
Gặp lúc chàng thanh niên đang ngồi gần đó, rắn liền mổ vào chân làm cậu
ngã liền ra bất tỉnh
...
Thấy con lâu trở lại, ông mới nhìn qua
đống rác thì thấy con đã nằm dài
...

Theo thường tình thế gian, thì chắc ông Bà La Môn sẽ khóc rống lên như ai và kể lể
nghẹn ngào rồi ma chay sẽ được tổ chức rườm rà tốn kém
...
Ông không chút nao lòng, không một tiếng than,
không một giọt nước mắt, và bình tĩnh hơn lúc nào hết
...

Sau khi nhận thấy vô phương cứu chữa, ông bèn ẳm thi hài đứa con đem đặt dưới một
tàng cây to mát mẻ rồi trở lại tiếp tục cày bừa như không có việc gì xảy ra cả
...

Ông bèn nhờ người ấy nói lại với gia đình biết, phần cơm trưa hôm nay thay vì hai phần
61

như mọi hôm chỉ nên đem lấy một thôi và toàn thể gia quyến nên đến cùng một lượt không
nên để người tớ gái đi một mình
...

Nghe qua câu chuyện người hàng xóm, nội nhà đều biết cậu hai đã chết, song cũng y như
ông ta, không ai nhào khóc than van như thường tình
...

Mọi người đều rất bình tĩnh và trầm lặng trong ý nghĩa cao sâu
...

Đến nơi thấy thi hài người thân yêu, ai ai cũng như nhau không có một lời tiếc than bộc
lộ ra ngoài
...

Dưới tàng cây họ im lặng đặt tràng hoa lên thân mình người yêu quý đã lạnh cứng
...

Ngọn lửa bắt đầu cháy, khói từ từ quyện lên cao và hòa vào không gian vô tận
...
Là cha, mẹ, là vợ, là em, sự thương tiếc thường
tình của con người không hẳn không có, nhưng họ là người giác ngộ nên đã biểu lộ tình
cảm ấy theo một khía cạnh sâu sắc tinh vi hợp lẽ đạo hơn
...

Và trong cuộc thử thách cam go ấy, họ đã chiến thắng hoàn toàn, còn Ma Vương phiền não
là kẻ chiến bại thảm thương
...
Vợ chồng ông Bà La Môn
cùng đám con chầm chậm ra về, Mặt trời đã xế chiều, ánh dương đã mờ, nhưng trong lòng
họ đã phát ra một ánh sáng mới
...
Thương yêu sinh uất ức, sinh lo sợ, dứt được
thương yêu thì uất ức lo sợ không còn”
...
Vô thường là thế, tiếc thương than khóc có
ích gì
...
Lửa cháy nó không biết nóng,
thì lời khóc than sao nó biết được?

Người con gái đáp:


Khóc than chỉ tổ ốm gầy, lợi được gì mà người thêm chuốc lấy bệnh hoạn? Kiếp
sống phũ phàng thì than thở có ích gì?

Người quả phụ trẻ tuổi nói tiếp:


Trẻ con thường đòi cho được mặt trăng nhưng dù cha mẹ có thương, có chiều, liệu có
đem mặt trăng xuống cho con được không?

Tôi khóc than, nào khác kẻ khùng! Vì có khóc cho mấy, chồng tôi đâu có nghe? Đâu có
thể sống dậy với tôi được?
Người đầy tớ gái đáp:


Nồi kia đã bể đi, không phương hàn gắn
...
NGÀI ĐẠO SĨ RỪNG TUYẾT LÃNH
Thời xưa có một vị đạo sĩ tên Lô Ma San (Lomasapassapa) là tiền thân của đức Từ Phụ
Thích Ca Mâu Ni
...
Vì sự hành đạo cao thượng của ngài nên nóng đến
Trời Đế Thích
...

Sau một hồi dùng thần nhãn xem xét bốn phương Đức Đế Thích mới thấy bởi vì oai lực
của ngài Lô Ma San
...

Đêm hôm ấy, ngài hiện ngay vào long sàng của Đức Vua
...
Nhà vua còn nửa tỉnh nửa mê thì Đức Đế Thích
bước lại gần và nói:
63



Đại vương! Đại vương hãy tỉnh dậy, Trẫm đây là Đế Thích đến mách cho Đại Vương
biết rằng nếu Đại Vương muốn làm chúa tể cõi diêm phù này, thì Trẫm giúp đại
vương một ý kiến:

“Đại Vương hãy đem công chúa giao cho vị quốc sư Sey Ya Ha (Seyyaha) nhờ ông đưa
đến rừng Tuyết Lãnh cám dỗ cho được ông đạo sĩ Lô Ma San
...
Nhờ quả này Đại Vương sẽ
không còn như mọi người trong thế gian
...

Xem đến đây chắc ai cũng cho là tâm Đức Đế Thích thật độc ác, nhưng kỳ thật ngài biết
rằng không bao giờ Đức Bồ Tát làm những điều ác như thế
...
Truyền
lệnh xong ông liền bắt tay ngay vào việc
...

Lời qua tiếng lại, mấy cái liếc mắt đưa tình, mấy cái mỉm cười quyến rũ, lại thêm Công
chúa xinh đẹp như tiên nữ giáng trần, nên chẳng mấy chốc vị đạo sĩ đã như hồn xiêu phách
lạc!
Vì không thu thúc tức không biết chận đứng không cho lục căn tiếp xúc với lục trần, nên
Đạo sĩ quên hết lẽ phải, nghe theo lời ngon ngọt của quốc sư ngã theo sắc đẹp của công
chúa mà bằng lòng về kinh là lễ tế thần lửa để được vợ đẹp
...

Đạo Sĩ Lô Ma San vừa về triều cùng vị quốc sư và công chúa Can Đa Đê Vi thì buổi lễ tế
thần lửa đã sắp đặt đâu vào đó
...
Khi thấy một người đạo sĩ mà sắp sát
sanh nên tất cả đều la ó lên phản đối
...
Hãy thức tỉnh đi thôi!” Những người
khác đồng hưởng ứng bàn tán xôn xao làm cho buổi lễ vô cùng xáo động
...


Mặt trời có sức mạnh vì xông nóng cả thế gian
...
Bờ biển có sức mạnh vì chứa được nhiều nước
...
” Vì bị bà công chúa Can Đa Đê Vi cám dỗ
64

được mà đạo sĩ là người hành được pháp Ta Pha phải về đây làm lễ tế thần lửa cho phụ
vương của bà: Tiếc thay! Tiếc thay!
Khi vị lão thành dứt lời, thì cũng vừa lúc đạo sĩ Lô Ma San đưa cây đao lên toan chặt đầu
một thớt tượng lớn
...

Đạo sĩ Lô Ma San là nhà tu hành thiện tâm liền thức tỉnh không thể không động lòng rơi
lụy trước thảm cảnh đang diễn ra trước mắt mình
...
Lòng nhân đạo, nhẫn nại cùng những đức tính
thiêng liêng trong giây lát trở về với ông làm ông ngừng tay và suy nghĩ:
-“Chúng sanh đang kinh sợ thế mà tự tay ta sẽ hạ đao giết hằng bao nhiêu sinh mạng
...

Ông buông đao, tự răn mình:


“Việc làm của nhà ngươi thật là đê tiện”!

Dứt lời ông niệm lại đề mục của ông khi còn ở rừng và đắc được tứ thiền lại như trước
...

Nhà vua mắt thấy tai nghe sự lạ thường ấy, vừa ngước mắt lên nhìn vị đạo sĩ thì ngài đã
biến mất trong mây
...


***

26
...

Thật vậy hai vợ chồng người Bà La Môn Kha Ly rất nghèo nàn, trong nhà chỉ có một cái
choàng thay nhau mà choàng lúc vợ hay chồng có việc phải ra ngoài
...
Hai vợ chồng mới bàn
nhau coi ai đi nghe thuyết pháp ban ngày và ai đi nghe ban đêm
...


Trong khi bà vợ đi nghe thuyết pháp ông chồng ở nhà cả ngày
...
Trong khi nghe pháp ông được phát sinh năm điều hỷ lạc nên thầy Bà La
Môn muốn cởi tấm choàng cúng dường cho Đức Phật, nhưng lại nghĩ rằng:


Nếu ta cúng dường tấm choàng này thì vợ ta và ta không có cái nào khác
...

Sự thật làm con người khi một tâm lành sinh lên, cả ngàn tâm ác kéo lại
...

Trong lòng thầy lúc này tâm lành và tâm ác đang chiến đấu nhau giữa hai ý có nên hoặc
không nên cúng dường tấm choàng? Thầy suy nghĩ mãi, hết canh thứ nhất thầy vẫn chưa
biết ngã ngũ ra sao cả
...
Qua đến canh thứ ba (thời ấy
đêm chia làm ba canh) tâm thiện cương quyết, thầy nói rằng:
Ta phải chiến đấu với tâm bỏn sẻn cả hai canh rồi, thì thấy tâm bỏn sẻn rất mạnh, nó sẽ
không cho ta giải thoát khỏi 4 đường ác đạo
...
Khi ấy, thầy Bà La Môn Kha Ly đã dẹp được lòng bỏn sèn, liền cởi choàng đem ra để
dưới chân đức Thế Tôn rồi la lên rằng:
-“Tôi thắng rồi, tôi thắng rồi!” Đức vua Pasenadi đang dự nghe thuyết pháp bỗng nghe
tiếng la như thế mới truyền quan hầu cận đến hỏi thầy Bà La Môn ấy là ai thắng? Thắng cái
gì? (nhà vua trong thời ấy đại kỵ với tiếng thắng)
...
Đức vua mới nghĩ rằng:
-“ Thầy Bà La Môn này làm chuyện rất khó, ít người làm được rồi đức vua ban cho thầy
Bà La Môn ấy hai cái choàng
...

Đức vua ban cho lần thứ nhì bốn cái, lần thứ ba tám cái, lần thứ tư mười sáu, lần thứ năm ba
mươi hai cái, thầy Bà La Môn ấy cũng đem dâng cho Đức Thế Tôn hết
...
Theo thầy thì muốn bố thí luôn, nhưng sợ e có người dị nghị rằng thầy ỷ lại
nơi nhà vua cho
...
Ngài mới phán vị đại thần ngồi gần:


Hiền khanh! Thầy Bà La Môn này làm việc mà người ta khó có thể làm được, và
ngài bảo vị đại thần về lấy hai cái choàng thứ Kambola (nhung đỏ) giá mỗi tấm một
muôn đồng tặng thầy Bà La Môn
...

Đức vua thấy vậy liền bố thí thêm cho thầy những món: “bốn ngàn đồng, bốn con tượng,
bốn con ngựa, bốn người tớ trai, bốn người tớ gái và bốn làng để thâu thuế
...

Đức Thế Tôn nghe nói, dạy rằng:


Nầy các Thầy Tỳ Khưu, nếu thầy Bà La Môn ấy dâng cúng lúc canh một sẽ được
mỗi vật mười sáu món, còn bố thí canh hai thì được mỗi vật tám món
...
Sự thật trong khi người
muốn làm phước không nên để tâm lành sinh lên rồi diệt mất, khi nào đã nghĩ thì
phải thực hành liền
...
Vậy hãy làm việc phước thiện bằng tâm mới phát khởi
...

“Người cần phải làm điều lành nên ngừa tâm không cho làm ác, vì khi làm việc lành
chậm thì tâm sẽ vui thích về điều ác”
...
- CHÍN LỜI VÀNG NGỌC CỦA ĐỨC

LỢI
PHẤT
Có một Thầy Tỳ Khưu nhân uất tức Đức Xá Lợi Phất nên tìm chuyện phao vu cho đã
giận
...
Khi ấy nhằm lúc ra hạ Đức Xá Lợi
Phất muốn vào an nghỉ tham thiền ở rừng
...

rất nhiều vị Tỳ Khưu đến đưa ngài đi
...

Hơn nữa vì quá nhiều vị nên cũng không tiếp chuyện cho được đầy đủ mỗi vị
...


Thầy cột oan trái và kiếm kế phao vu cho ngài Đại Đức phải xin lỗi Thầy
...
Được dịp may,
Thầy đợi cho Đức Xá Lợi Phất ra khỏi chùa rồi vào hầu Phật và tố cáo rằng:
-Ngài Xá Lợi Phất ỷ mình là đại đệ tử Phật, khi ra đi còn bộp tai đệ tử thật là đau, mà
Ngài cũng không xin lỗi đệ tử nữa
...

Khi ấy Đại Đức Mục Kiền Liên và Đại Đức A Nan Đà nghĩ rằng:
-“Chắc Đức Phật biết rằng sư huynh ta không có đánh Thầy Tỳ Khưu này, nhưng Ngài
muốn sư huynh ta nói lên sự thật”
...

Khi Đại Đức Xá Lợi Phất vào đến đảnh lễ Đức Thế Tôn xong bèn ngồi nơi phải lẽ
...

Sau khi Đại đức Xá Lợi Phất ví ngài với chín điều ấy, quả địa cầu là vật vô tri giác mà
cũng rung động như tỏ lòng kính phục đức từ bi và nhẫn nại của Ngài
...

Riêng Thầy Tỳ Khưu phao vu ấy, lấy làm ăn năn hối hận việc mình đã làm, đến qùy dưới
chân Đức Thế Tôn xin Ngài tha tội
...
Đại Đức Xá Lợi
Phất quỳ xuống bạch rằng:
-Bạch Đức Thế Tôn! đệ tử vui lòng tha thứ tội lỗi cho Thầy Tỳ Khưu ấy, và xin Thầy vui
lòng tha lỗi cho đệ tử nếu đệ tử có lỗi với Thầy
...

ĐẤT NƯỚC LỬA ĐÂU BIẾT VUI BUỒN
Đại Đức Xá Lợi Phất tự ví ngài như mặt đất
...

Ngài ví mình như nước, vì lẽ cố nhiên người có đem nước đi uống, tắm, hoặc rửa đồ dơ,
nước ấy cũng không vui mà cũng chẳng buồn
...

Ngài ví Ngài như hạng Chiên Đà La vì hạng này là hạng bị chê là đê hèn nhất ở xứ
Ấn Độ trong thời ấy, ai muốn đánh, chưởi mắng nhiếc, thậm chí đến giết chết cũng
vô tội
...
Trong
khi Ngài ví Ngài như hạng người này, làm cho Thầy Tỳ Khưu phao vu cho Ngài lấy làm
khổ tâm và rất cảm động
...

Ngài ví mình như con rắn mang cái xác nặng nề cực nhọc
...
Ngài chỉ mong sự giải thoát mà thôi, không vì cái thân đau khổ này mà đi tranh
giành những gì với kẻ khác
...
Trong chín điều này ý Ngài Xá Lợi Phất đều chỉ rằng: Ngài là người
không thích sự tranh tụng gây gổ, ai muốn làm gì cũng được
...
Ngài chỉ biết sống từng ngày vì sự tu hành
mà thôi
...


***

28
...
Ngài xuất gia làm đạo sĩ ở tại rừng tuyết lãnh rất lâu
...
Lúc ấy đức vua Bàrànasì tên Kha Lạc Phu (Kalapu)
uống rượu say, dẫn phi tần vào vường Thượng Uyển chơi, vì say nên Ngài ngủ quên tại
vườn Thượng Uyển
...


69

Khi đức vua tỉnh rượu thức dậy không thấy một phi tần nào hầu Ngài cả, nổi giận, Vua
xách gươm đi kiếm
...

Khi Vua đi đến cội dừng, thấy vị Đạo Sĩ đang ngồi thuyết pháp hỏi:







Này thầy Sa Môn, người hằng dạy người đời những gì?
Tâu Đại Vương, bần đạo hằng dạy về sự nhẫn nại
...

Nếu vậy, ta sẽ trông thấy người có nhẫn nại hay là không
...


Giám sát tuân lịnh làm y lời
...
Có lẽ Đại Vương tưởng rằng: Nhẫn
nại ở theo da bần đạo chăng? Nhẫn nại không ở theo da bần đạo đâu, mà ở trong
thâm tâm của bần đạo
...


Sau khi chặt tay và chặt chân xong, đức vua hỏi như lần trước
...
Đại Vương tưởng rằng: nhẫn nại ở
theo tay chân của bần đạo chăng? Nhẫn nại không ở theo tay chân đâu?

Đức Vua bèn truyền lệnh:


Các ngươi hãy lắt tai, xẻo mũi, và móc mắt tên Đạo Sĩ này cho ta
...
Đức Vua lại hỏi như câu vừa rồi
...

Mặt quả địa cầu chịu nổi sức nặng của núi Tuyết Lãnh, nhưng không chở nổi tội lỗi của
nhà Vua đã làm nên nứt ra thành một hố sâu
...

Sau khi Đức Vua ra đi, có một vị đại thần vào lau máu cho Ngài Đạo Sĩ và nói:


Bạch Ngài! nếu Ngài có giận thì Ngài giận nhà vua làm hại Ngài, xin đừng giận
chúng tôi
...
Vì người như ta không bao giờ biết giận
...

Ta hãy nhớ gương của Ngài và hành theo đức nhẫn nại ấy
...
Nếu ta nhịn chịu được mới gọi là
người có tu, hay là tu đến bực nào
...
Nếu ta có đủ lòng nhẫn nại
là có vũ khí thắng những kẻ hung ác
...
- CÁCH TRUYỀN ĐẠO BẰNG PHÁP
NHẪN NẠI
Thưở xưa có một người phú thương tên Phùng Na (Punna) ở xứ Xu Na Pha đi đến kinh
đô Thất La Phiệt để buôn bán được vào hầu Đức Phật
...


Rồi ông xin xuất gia học tham thiền với Đức Thế Tôn
...
Ngài nghĩ rằng chỗ này phong thổ không hợp với ta nên
muốn đi về xứ Sunaparanta, mới vào hầu Đức Thế Tôn xin phép đi
...


Đức Thế Tôn hỏi:



Này Phùng Na, người xứ Xunapha rất hung ác, thô lỗ
...
Vì họ không đánh con bằng tay
...

71

Đức Phật lại phán hỏi:














Này Phùng Na, nếu những người xứ Xu Na Pha đánh người bằng tay, theo trường
hợp này nhà ngươi nghĩ đối phó thế nào?
Bạch Đức Thế Tôn, nếu những người xứ ấy đánh đệ tử bằng tay, đệ tử sẽ nghĩ rằng:
người Xu Na Pha thật là tử tế, vì những người ấy không chọi con bằng gạch, Bạch
Đức Thế Tôn, theo trường hợp này đệ tử nghĩ như vậy
...
Và họ chưa đánh con bằng cây
...

Vậy nếu những người ấy sẽ đánh ngươi bằng cây, trường hợp này nhà ngươi nghĩ đối
phó thế nào?
Bạch Đức Thế Tôn, nếu những người xứ ấy đánh bằng cây đệ tử sẽ nghĩ rằng: những
người xứ Xu Na Pha rất tử tế
...

Bạch Đức Thế Tôn, theo trường hợp này đệ tử nghĩ như vậy
...

Nếu những người xứ ấy sẽ giết ngươi thì sao?
Bạch Đức Thế Tôn, nếu họ sẽ giết đệ tử, đệ tử sẽ nghĩ rằng: Chư thinh văn đệ tử Phật,
chán nản gớm ghê thân này, các Ngài hằng muốn trừ nó, riêng về phần đệ tử không
kiếm nhưng nay lại được
...


Đức Thế Tôn tỏ lời hoan hỉ:


Lành thay! Lành thay! Phùng Na là người có tâm thanh tịnh là sự nén lòng, người có
thể đi đến ở xứ Xu Na Pha được
...


Tích của ngài Phùng Na cho ta thấy nhẫn nại với bảy điều đó là: 1/ Chửi, 2/ Dọa nạt, 3/
Đánh bằng tay, 4/ Chọi bằng gạch đá, 5/ Đánh bằng cây, 6/ Chém bằng dao hay đâm bằng
kiếm, 7/ Giết chết
...
Nhờ
đức nhẫn nại ấy mà Ngài chinh phục được tất cả lòng người trong xứ Xu Na Pha những
người chửi mắng Ngài đều trở nên tín đồ của Ngài cả
...

Có đủ nhẫn nại như Ngài, mới đáng làm hướng đạo dạy đời hai tiếng nhẫn nại
...
– NÓNG NÀY CÓ BẰNG NÓNG
72

TRONG ĐỊA NGỤC CHĂNG?
Có vị Đại Đức tên Naga
...
Ngày ấy vào mùa hạ,
trời nóng như thiêu như đốt, nhưng Ngài vẫn tự nhiên ngồi tham thiền giữa trời mồ hôi đổ
ra như tắm
...

Ngài Đại Đức đáp:


Vì ta sợ nóng lắm nên mới ngồi đây
...
- ĐÓI KHÁT NÀY CÓ BẰNG ĐÓI KHÁT
CỦA
KIẾP
NGẠ
QUỶ
CHĂNG?
Một vị Đại Đức khác khi đi khất thực thiếu cơm ăn đã hai ba ngày, đói khát thật không
còn chỗ nói nữa
...
Ngài nghĩ rằng:


Khi ta còn luân hồi trong cõi Sa Bà này đã biết bao lần sanh làm ngạ quỷ phải bị đói
khát gấp trăm triệu lần như thế này
...


Nhờ lòng nhẫn nại ấy mà các Đại Đức nói trên đã đắc quả A La Hán giải thoát khỏi luân
hồi sinh tử tử sinh
...
– PHÁP NHẪN NẠI
TRONG TẦM TAY SINH SÁT
Khi xưa, thường có trận giặc giữa Chư Thiên và A Tu La Vương
...
A Tu La Vương nổi giận, mắng chửi
đức Đế Thích không tiếc lời:


Ngươi là kẻ cướp, kẻ hung ác, là kẻ ngu si, ngươi là bò, là lừa, là lạc đà, là loài địa
ngục, là súc sanh, là người không còn đường sanh về cõi trời nữa, chỉ sanh vào ác
73

đạo mà thôi
...
Bao giờ
A Tu La Vương thắng khi ấy ta sẽ cột ngươi như thế này để nằm trước cửa thánh của
A Tu La rồi sẽ đánh ngươi cho đến chết
...


Đức Đế Thích đáp:


Không phải vì ta sợ mà nhịn đâu
...
Chỉ có sự nhẫn nại là sự lợi ích cao thượng
tuyệt đối mà thôi
...
Ta nhẫn nại là ta đã đắc thắng càng thêm đắc thắng vậy
...
v
...


Phật dạy:
-“Người nào giận trả lại người đang sân hận, còn tệ hơn kẻ sân hận, người không giận
người sân hận là người thắng trận giặc mà khó có người thắng được vậy
...
- MẤY KIẾP TRẢ VAY
Thời xa xưa ở làng nọ có một chàng thanh niên tên Xuân rất hiếu thảo
...
Khi cha qua đời chàng lại cương quyết
hơn, nhất định ở vậy nuôi mẹ
...
Bà kín
đáo chọn cho con một người vợ
...
Đến khi cậu Xuân biết được đó là
lễ cưới vợ cho mình, cậu mới ngã người ra nhưng vì chữ hiếu cậu phải vui vẻ với cuộc tình
duyên đó
...
Làng xóm ai cũng khen và mẹ cậu Xuân cũng lấy làm sung sướng
...

74

Nhận thấy cảnh của mình không khác trường hợp những cô ả:
“Có chồng mà chẳng có con
Như bông hoa nở trên non một mình”
Nàng đã thao thức nhiều đêm, xót cho thân phận mình và cũng thương cho nhà chồng
phải cảnh tuyệt tự
...

Cảnh gia đình không phải vì thêm người hay vì mối tình duy nhất kia phải chia sẻ mà
kém đầm ấm
...
Nhưng rồi
bỗng một hôm, một bóng mây đen bao phủ trên gia đình hòa thuận ấy
...
Nàng cảm thấy mình bị chồng và
mẹ chồng bỏ rơi, vợ nhỏ khinh thường và nhất là một mai khi chết xuống cũng chẳng ai
thắp cho nén hương hay viếng thăm phần mộ cô đơn
...

Mãi cho đến một hôm
...
Tình thương đạo đức trong lòng nàng lâu nay đã biến
đi và máu ganh tỵ ghen ghét bừng bừng nổi lên
...
Thế nên nàng tìm cách triệt hạ những ai đã làm cho nàng đau khổ
...

Từ ấy trở đi nàng sắp đặt một âm mưu rất sâu hiểm nhằm làm hại cho được nàng hai
...
Nàng làm đủ điều, từ nhỏ đến lớn, rất vừa lòng nàng tiểu thiếp
...

Nàng hầu càng yêu chị nên chị em to nhỏ tâm sự nhau
...

Không ngờ câu nói chân thật ngây thơ này lại là luồng gió thổi ngọn lửa đang bừng cháy
trong lòng chị cả
...

75

Cơm vừa ăn vào, nàng bé cảm thấy đau bụng, và trong chốc lát chiếc bào thai bị trục ra
ngoài
...

Nếp sống trong gia đình lại trở lại như xưa, cũng trên thuận dưới hòa, cũng tình chị em
khắn khít như thuở nào
...
Mong
sao chóng có con để được bụng gia nương và nhất là để đáp tấm lòng quá ư quý hoá của chị
cả
...

Và cũng như lần trước, chỉ vài ba tháng sau thai lại bị trục
...
Tâm linh như báo nàng chung quanh có người ám hại
nên lần thứ ba mang thai, nàng giữ rất kín đáo, và đề phòng đủ cách
...
Nàng chăm lo ăn uống cho
người em và không quên mỗi lần rắc vào một ít thuốc phá thai
...
Tuy vậy nàng vẫn bị lời ăn tiếng nói
ngọt ngào như mật đậm hơn trà của người chị huyễn hoặc nên không biết gì cả
...
Nhưng người chị không sớm biết ngay tự lúc nó hãy còn
trong vài ba tháng vì bụng nàng hai không to như lần trước
...

Lần này thuốc ngấm lâu hơn cái thai già tháng nên cần một liều dược lớn
...

Trong phút lâm chung, linh tính người em thấy rõ âm mưu thâm độc giết mẹ con mình
của người vợ lớn
...
Cắn răng, rớt
nước mắt người vợ nhỏ quyết chí rửa thù trong những kiếp lai sinh
...

Luật luân hồi vay trả trả vay, sau khi chết người vợ nhỏ sanh làm con mèo cái, còn người
vợ lớn sanh làm con gà mái ở chung một nhà
...

Kiếp thứ ba sau khi chết, gà sanh làm con beo cái, con mèo thì sanh làm nai cái
...

76

Kiếp thứ tư, sau khi chết nai cái sanh làm hung thần, còn con beo thì sanh làm con gái
của một gia đình giàu có
...
Cứ mỗi lần cô này sinh nở là hung thần hóa
làm người bạn đến thăm chơi để rồi thừa cơ chụp lấy hài nhi ăn thịt
...

Người đàn bà đau khổ ấy đã gần như mất trí, khi biết mình thọ thai lần thứ ba
...
Nói về hung thần vì đến
phiên hầu nước chi đức Vessa Vanna là vị Chúa tể cai quản tất cả hung thần
...
Khi được biết người thù
của mình đã về quê ngoại, nó liền bay vọt lên mây nương mình theo gió để tìm cho bằng
được người thù không đội trời chung
...
Bèn đưa nhau lên đường trở lại quê hương
...
Người
vợ tắm trước xong lên ẵm con cho người chồng tắm
...

Nhìn lên trời nàng thất kinh hồn vía: Vì vừa nhận ra hung thần
...
Đức
Phật đã thuật lại nguyên nhân của sự oán thù nhiều đời và nhiều kiếp này và Ngài dạy phải
lấy từ bi để trừ diệt oán thù
...


***

34
...
Khi thái tử chết đức vua lấy làm đau khổ,
buồn rầu, bỏ ăn bỏ uống, cả ngày đêm chỉ than khóc không thiết gì đến việc triều chính,
không ai khuyên giải ngài được
...
Ông này cũng khóc, nhưng khác với anh thay vì anh khóc trong cung, còn
ông lại ra đường đứng khóc hoài
...


Ai cũng cho rằng ông điên, và đem câu chuyện tâu lại cho Đức Vua nghe
...
Khi nghe qua câu chuyện
kỳ lạ ấy ngài ngự ra đường nắm tay em và hỏi rằng:


Tại sao hoàng đệ đi lang thang cùng thành đòi thỏ cung trăng như là kẻ mất trí vậy?
Em muốn hỏi thỏ bằng vàng, bạc, ngọc ngà, xích châu, mã nảo chăng, vương huynh
sẽ bảo thợ kim hoàn làm cho em, hay em muốn thỏ thật? Vậy em muốn thứ thỏ nào
hãy cho vương huynh biết
...


Đức vua nghe như thế lấy làm sầu khổ vô cùng nghĩ rằng Ga Na Đi đã điên rồi, nên ngài
nói:



Ga Na Đi! đòi hỏi như hoàng đệ chắc thế nào hoàng đệ cũng chết
...
Có lý nào hoàng đệ lại muốn được thỏ cung trăng?
Vương huynh đã biết người mơ ước thỏ trên cung trăng sẽ bị chết, vì không thể bắt
được thỏ nên sanh buồn rầu thất vọng mà chết
...


Ga Na Đi cầm tay anh nói tiếp
...


Câu này chỉ là một câu nói hoang đường thôi
...
Đã gọi là chết thì không ai đem của cải ra mua chuộc
hay dùng mưu trí để trốn tránh được
...

Đức vua nghe qua hiểu rõ sự chết là của chung và phải đến của chúng sanh nên không
buồn nữa
...

*
Làm cha thương con như nhà vua trên, kể ra cũng đáng khen nhưng khi con đã chết sự
khóc than uất ức thương tiếc thảy đều vô ích
...

Lúc con chết đã vậy, thì lúc còn sống bổn phận của cha mẹ còn khó khăn hơn
...
Đó mới là tròn bổn phận
...
-CA LA KHI TÂM CHÀNG
BỪNG SÁNG
Ngày trước ông bá hộ Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ có người con trai tên Ca La, cậu này
không tin Phật pháp lại thích theo tà kiến
...
Ông
cố gắng bao nhiêu cũng không sao cảm hóa được người con cưng ấy
...


Người con mừng rỡ, không phải vì được đến cửa Phật mà vì số tiền to lớn kia
...

Lần khác, ông Cấp Cô Độc lại gọi con nói:


Nếu con đến nghe đức Phật thuyết pháp và con nhớ một câu Phật ngôn, chỉ một câu
thôi, cha sẽ thưởng cho con một ngàn đồng vàng
...


Câu hăm hở đến chùa
...

Cậu lập đi lập lại đã thuộc lòng mới đứng dậy, lần ra về, nhưng lạ biết bao vì khi về đến nhà
lại quên mất không còn nhớ được chữ nào
...

Cậu Ca La lấy làm tức mình hôm sau lại đi nghe thuyết pháp nữa và lần này cố vận dụng
hết tâm trí để nhớ cho được một câu
...

Cậu Ca La nhớ lời Phật dạy và phát tâm kinh sợ
...

Về đến nhà nhớ đến việc nhận số tiền thưởng của cha cậu đâm ra hổ thẹn đóng cửa ở
trong phòng suốt ngày đêm hôm ấy
...
Cậu mắc cở không chịu ra cũng không
chịu nhận số tiền thưởng
...
Khi
đã đắc quả rồi, thì vàng bạc ngọc ngà châu báu đối với con người không có giá trị gì
hết
...
- NƯỚC UỐNG VÀO CỔ
THÀNH LỬA
Có ba chục vị Tỳ Khưu hành đầu đà ở rừng, cứ mỗi sáng sớm các Ngài xa xóm khất thực
...
Các Ngài mới hỏi:


Ngươi làm gì đứng đó?

Ngạ quỷ đáp:


Muốn đi tìm nước uống
...


Chư Tỳ Khưu nghe tình cảnh ấy lấy làm thương hại nên bảo ngạ quỷ nằm xuống
...
Nếu có mà tôi nói
dối, tôi xin nguyện vĩnh đọa mãi trong địa ngục
...
Ngài dạy rằng:


Chỉ có hồi hướng phước báu thì nhơn mới thọ lãnh được
...
Ba chục vị Tỳ Khưu đi nấu nước, thiện tín thì bố thí
đường, sữa, và mời chư Tỳ Khưu đến cúng dường
...

Đêm ấy trong khi ba chục vị Tỳ Khưu đang đi kinh hành, có một vị chư thiên hào quang
sáng rỡ bay đến đảnh lễ các Ngài và cho biết ngạ quỷ buổi sáng do nhờ quý Ngài hồi hướng
phước báu đến cho nên được làm chư thiên
...
Cho nên khi ta muốn làm phước,
ngày nào thuận tiện thì làm liền, chúng ta không cần phải đợi ngày kỷ niệm hay tốt xấu vì
biết đâu người ấy trong cảnh giới khác đang đau khổ đợi ta ban phước”
...
- TÔN TRỌNG SỰ SỐNG
Ngày ấy Ca Kha Na chưa hiểu gì đến Phật pháp nhưng chàng có từ tâm thương yêu muôn
loài
...

Anh của chàng sai đi bắt thỏ
...
Thấy thỏ run rẩy sợ chết, chàng tự nghĩ:


“Sự giết một sinh mạng khác vì bệnh tình của mẹ ta thực là một việc không đáng làm,
vì chúng sinh ai cũng sợ chết mà mình đi giết một mạng để cứu một mạng!”

Chàng liền vuốt ve thỏ và nói:


“Thôi ta trả tự do lại cho ngươi, xin ngươi hãy vui vẻ về bầy”
...
Không còn cách gì hơn chàng vào
ôm mẹ phát nguyện rằng:


“Từ khi sơ sanh đến nay con không hề có ý sát sinh, xin nhờ oai đức cầu xin cho mẹ
được lành mạnh”
...

Việc trên đây giúp cho ta thấy rõ sự xa lánh khỏi điều ác trong khi gặp mà không làm
...

Một khi đã phát nguyện rồi, ta có thể chịu chết chớ không chịu phạm vào điều học mà mình
đã phát nguyện vâng giữ hành theo
...
- NGƯỜI TỚ TRAI
CỦA ÔNG TRƯỞNG GIẢ
Một hôm nhân giảng về Bát quan trai giới Đức Thế Tôn có dạy bà tín nữ tên Vi Sa Kha
rằng nhà vua trị được mười sáu nước lớn trong đời ấy có cả bảy thứ báu, là người quyền
hành, giàu có sang trọng nhất nhưng cái phước ấy cũng không bằng một phần thứ mười sáu
của công đức thọ bát quan trai giới ngày và đêm trọn vẹn
...
Những người trong gia đình ông, từ vợ con đến tôi tớ đều thọ Bát quan
trai giới ít lắm là sáu ngày (trong một tháng)
...
Ông thu nhận nhưng sơ ý
không nói cho ấy biết rằng, tất cả người nhà ông đều thọ Bát quan trai giới
...
Ngày nọ nhằm ngày giới, ông trưởng giả mới bảo
những người nấu ăn rằng:


Ngày nay là ngày Bát quan trai giới, hãy nấu cơm cho nhân công ăn sớm, vì họ chỉ
ăn có một buổi
...
Riêng người làm công mới ấy
cứ đi làm như thường lệ, vì không ai cho anh biết
...
Sau khi làm xong phận sự về, người làm
bếp mới dọn cơm cho anh ăn
...


Người làm bếp đáp:


Những người ấy giữ Bát quan trai giới nên họ về chỗ nghỉ của họ hết
...
” Anh nghĩ như thế nên không ăn cơm, anh vào hầu ông trưởng giả và
hỏi:
Thưa ông, nếu tôi nguyện thọ Bát quan trai giới vào giờ này, thì tôi có được phước
của Bát quan trai giới ấy không?

Ông trưởng giả đáp:


Người không phát nguyện thọ từ sáng sớm nếu ngươi thọ từ bây giờ thì ngươi chỉ
được có phân nửa thôi
...
Thế rồi anh xin phát nguyện thọ
...
Vì cả ngày làm lụng vất vả tối
lại không ăn uống, nên khuya anh bị ngộ gió độc
...
Lúc rạng đông anh không thể chịu
nổi chứng bệnh làm cho anh mê mang
...
Vì họ kiêng
cử kẻ chết trong nhà
...
Anh ở mướn ấy
đang nằm nửa tỉnh nửa mơ trông thấy sự sang cả của nhà vua liền ước muốn được như thế
...
Anh tái sinh vào lòng của hoàng
hậu Bàrànasì là do nhờ quả của anh đã thọ Bát quan trai giới
...
Khi lớn lên thái tử được nối
ngôi của vua cha
...


Từ ấy ông càng cố công tu
...


Bát quan trai giới là một việc làm vô tội mà trái lại còn có rất nhiều phước, mà hơn nữa
việc ấy lại là một phương pháp để diệt trừ phiền não mới từ ngoài vào
...
Giúp đỡ chỉ giùm những người già cả mang
nặng đi lạc đường hoặc chỉ đường cho các vị Sa Môn đi khất thực
...
Nói rộng hơn
nữa sự trồng cây để cho bóng mát hay là làm cầu, đắp đường cùng là việc làm đem sự hữu
ích cho mọi người cũng đều gọi là làm việc vô tội và tạo rất nhiều phước
...
- QUYẾT TÂM TRÌ GIỚI
Có một thiện nam ở một làng gần núi Đan Ta Hoa thọ Bát quan trai giới với ngài Đại Đức
Binh Ga La tại chùa Âm Bang Đa
...
Đang
lùng trong các bụi cây rậm, chẳng may ông vô ý bị một con trăn to quấn ông
...
Ta nhất định không nên để giới hạnh ta
hư hại”
...
Con trăn siết càng
chặt càng làm cho ông thấy cái chết trước mắt và tự nhiên ông đâm ra lo sợ
...

Ông định tâm:


Ta nhất định thà chết còn hơn là phạm giới
...

Vì oai lực hy sinh cố giữ gìn giới cho trong sạch của ông như có truyền cảm qua con trăn,
làm con trăn cảm động tháo ra bò đi nơi khác
...
- KHI LÒNG ĐÃ TUNG CÁNH
Trong kinh Pháp cú có tích cô Khương Ta Ra (Khujjuttarà) là thị nữ của hoàng hậu
Samavati ở xứ Cổ Sơn Bi (Kosambi) được hoàng hậu và đức vua rất tin dùng, mỗi ngày đức
vua giao cho cô tám đồng để mua hoa trang điểm cho Hoàng Hậu
...


Cô Khương Ta Ra sẵn lòng chờ đợi
...

Sau khi nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp cô Khương Ta Ra đắc quả Tu Đà Hườn chừng ấy
cô rất ăn năn tội lỗi của cô làm hằng ngày, là ăn lời một nửa số tiền mua hoa cho Hoàng
Hậu
...

Hoàng hậu thấy hoa nhiều hơn mọi bữa, mới phán hỏi:


Này Khương Ta Ra! Hôm nay có phải Hoàng thượng cho thêm tiền hay sao mà em
mua được nhiều hoa như vậy?

Cô đáp:






Tâu Hoàng Hậu, không có ạ
...

Tâu Hoàng hậu, những bữa trước tôi ăn lời hết một nửa
...


(Theo ý cô Khương Ta Ra nói hiểu pháp là được đắc quả tu đà hườn)
Hoàng hậu thấy thái độ của cô, thú nhận tội lỗi và rất trầm tĩnh dường như được no lòng
với hương vị của Pháp bảo, nên không buồn phiền và rầy la cô chi hết, trở lại yêu cầu cô
cho bà cùng được nếm hương vị cao quý ấy với
...
Cách thức của người
muốn nghe Pháp là phải hết sức kính trọng người thuyết
...
Tất cả các
trang sức của bà để trang điểm cho cô, lại nhường tọa vị của bà cho cô ngồi thuyết pháp còn
tự Hoàng Hậu ngồi xuống đất cùng với các thị nữ khác chăm chú nghe
...
Về sau Đức Thế Tôn để lời khen ngợi cô Khương Ta Ra là một tín nữ có tài thuyết
pháp giỏi hơn các tín nữ khác trong Phật giáo
...
Nghe nhiều học rộng đem hạnh
phúc cho mình và cho người khác là như vậy
...

Còn đối với hàng xuất gia, sự nghe nhiều học rộng lại đem nhiều lợi ích đến hàng Thiện
Tín
...
Ngài là một Tỳ Khưu thông hiểu tam tạng,
thuyết pháp cho một vị vua nghe, hay ho và sâu sắc đến nỗi pháp sư cùng thính pháp, cả hai
đều đắc quả Tu Đà Hườn
...
Nhờ đó mà ta diệt bỏ tâm hung ác xấu xa,
kiếp này không ai chê kiếp sau được sanh về cõi an vui vậy
...
– CON ĐẠI BÀNG ĐIỂU
VÀ VỊ ĐẠO SĨ
Thuở xưa, có một điểu vương thường quen gọi là Đại Bàng Điểu ở trên cây gòn gần phía
đông bờ biển, có nhiều uy lực thần thông làm gió lớn, rẽ nước làm hai để bắt loài rồng đem
về núi Tuyết Sơn làm thực phẩm
...

Một ngày nọ, điểu vương bắt được rồng, đem đi ăn bay ngang cây đa, rồng dùng đuôi
khoanh siết chặt cây đa, mong thoát chết
...
Cây đa sa xuống biển
tiếng động cả vùng, điểu vương giật mình xem lại mới biết là cây đa nên lo nghĩ, cho rằng
đây là cây đa nơi tu hành của vị đạo sĩ
...

Thế rồi Điểu vương biến thành một thanh niên đến tịnh thất của Đạo Sĩ
...

Thanh niên giả như không hay biết chi cả, bèn bạch hỏi rằng:


Do nguyên nhân nào mà nơi đây có đất sụp như thế?

86








Này cậu thanh niên! Có Điểu vương đi tìm thực phẩm, bắt được long vương rồi đem
đi
...

Bạch, Điểu vương vô ý làm cây đa trốc gốc vì Long vương siết chặt, vậy ai có tội?
Nầy thanh niên! Điểu vương vô ý làm cây đa trốc gốc nên vô tội
...

Nầy thanh niên! Long vương cũng vô tội, vì sợ chết mà siết chặt cây đa
...
Tối rất hoan hỷ với ngài
...


Đạo sĩ đáp:


Nầy thanh niên! Hãy trở về đi, ta không mong được chú ngữ đó đâu
...

Sau đó không lâu có người thợ săn nghèo khó, không nơi nương tựa, nên vào rừng tính tự
tử
...

Vị đạo sĩ nghĩ rằng:


Người thợ săn đây có nhiều công ơn với ta, vậy ta nên đem chú ngữ của Điểu vương
mà truyền lại cho người này
...


Người thợ săn bạch:


Tôi không cần chú ngữ
...


Khi học xong, người thợ săn ở thêm vài ngày, rồi từ giã đạo sĩ ra đi khỏi nơi ấy
...

Khi đó có các long nữ đều là vợ của Bồ Tát Bhuridata cầu ngọc mani cho thành tựu theo
sở nguyện
...

Đến rạng đông, mặt trời vừa mọc, các nàng trang điểm y phục rồi ngồi chung quanh ngọc
thần
...


87

Người thợ săn Alambayana vô tình đi đến, thấy ngọc mani sáng chói, cả mừng, liền lượm
đem đi, rồi gặp hai cha con người thợ săn Somadata
...

Bạn Alambayana! Ngọc mani nầy nếu người biết giữ gìn chân chánh thì nó sẽ đem
đến nhiều kết quả tốt đẹp, nếu không biết chăm nom cẩn thận, ắt có tai họa chẳng sai
...

Này anh thợ săn, ngọc mani của tôi rất quý, tôi không tin lời anh, tôi không bán, cũng
không đổi với bất cứ vật gì
...

Vậy anh có phải Điểu vương biến hóa ra để tìm thực phẩm chăng?
Không, tôi là người thuần tục trong nghề bắt rắn, tôi có tên rõ rệt là Alambayana nếu
anh biết Long vương trong nơi nào, hãy chỉ ngay đi
...
Tôi vào ngụ nơi đấy
và hết lòng phụng sự Ngài cả ngày lẫn đêm, nên Ngài từ bi thương xót truyền lại chú
ngữ ấy cho tôi
...
Tôi là thầy
cả của thầy bắt rắn đây
...
Ngài cho cha hưởng giàu sang, vinh hiển, lẽ
đâu cha lại lấy ân đáp oán cho đành
...
Cha
mong được của cãi hãy đến Ngài mà xin đi muốn bao nhiêu sẽ được như nguyện
...

Nầy Somadata! Con còn nhỏ mà biết gì!

88

Những thợ săn xưa kia tạo biết bao nghiệp ác mà họ đâu có bị quả khổ chi
...

Nói xong, người thợ săn bèn dẫn Alambayana đến Bhuridata (Bồ Tát) trong khi Ngài
đang thọ Bát quan trai giới trong động (Bồ Tát Bhuridata là tiền thân của Phật Thích Ca)
...


Somadata nói xong từ bỏ cha xuất gia làm đạo sĩ, hành thiền đắc phi định và thần thông,
sau khi mạng chung được sanh lên cõi phạm Thiên
...


Anh ta dẫn Alambayana đến chỗ Bhuridata (Bồ Tát) đang trì giới chỉ cho Alambayana:


Anh hãy bắt Long vương và cho ngọc mani đến tôi đi
...
Ngọc mani rớt xuống đất biến luôn về long cung
...

Anh đã không được ngọc mani, lại bị người con bỏ lánh đi mất và điều đau khổ hơn cả là
phải xa lìa bạn lành là Đức Bồ Tát, vì hắn là kẻ bạc ân
...
Nay lại dẫn thầy bắt rắn đến hại ta
...
Vả lại ta đã phát nguyện: kẻ
nào mong được da thịt, máu và xương ta, thì hãy dùng tùy theo sở thích
...
Ngài tưởng đến lời nguyện như vậy, rồi nhắm mắt nằm im không động”
...
Xong hắn nắm đuôi đưa lên đầu trở xuống cho mửa thực phẩm ra
rồi để nằm dài trên đất, dẫn (Bồ Tát) tới dẫn lui như thuộc da, máu chảy ra theo miệng và
mũi
...
Ngài chỉ chăm
chú trì Bát quan trai cho trong sạch
...
Hắn dùng chân đạp
Bồ Tát vào rồi quảy vào xóm, báo tin cho dân chúng biết đến xem rồng múa nhẩy
...
v
...

Dân chúng xem rồi, ai ai cũng thương hại Bồ Tát, không ngăn giọt lệ được
...

Trước kia hắn nói khi được một ngàn lượng thì hắn thả Bồ tát nay được một ngàn lượng
hắn còn mong được nhiều nữa
...
Alambayana đem cơm tẩm mật cho Bồ Tát dùng nhưng Ngài không dùng
...
Đức
vua cho thông báo cho dân chúng hay, đề vào xem rồng của Alambayana múa trong ngày
Bát quan trai giới
...
Giật mình thức dậy bà rất lo sợ cái tai hại đến chồng
con, nhất là nhớ tưởng đến Bồ Tát
...

Đến nửa tháng mà không thấy Bồ Tát về, mẹ Ngài thêm buồn thảm, khóc than không dứt
bỏ an quên ngủ
...

Bà liền cho biết về điềm mộng mà bà đã thấy và đã quá kỳ hạn rồi, nhưng không thấy
Bhuriddata về thăm như mọi khi, bà nói với con:


Nếu mẹ không gặp Bhuridata thì khó sống được
...

90

Người anh cả là Sudasana thầm nghĩ:


“Sự đi tìm Bhuridata đây không nên đi chung một đường, vậy ta phải chia ra một
người đi lên cung trời, một người lên núi Tuyết Sơn, một người đi tìm trong cõi
người
...
Tuy nhiên em Kanarittha hung dữ lắm
nếu để đi lên nhân gian gặp em Bhuridata trong châu quận nào thì không khéo nổi
giận đốt phá châu quận đó tiêu tan ra tro bụi”
...
Có lẽ chư thiên xuống thỉnh em Bhuridata lên
thiên cung chăng? Nếu gặp em Bhuridata thì mau mời về
...

Sudasana gọi em Subhoga đến dạy rằng:



Em lãnh mệnh đi đến Tuyết Sơn, phải tìm cho khắp núi sông, rồi trở về cho mẹ biết
...

Bậc xuất gia là hạng đáng cho phần đông kính mến
...


LÊN ĐƯỜNG TÌM EM
Nghĩ thế liền biến làm một vị đạo sĩ quỳ lạy từ giã mẹ rồi ra đi lên cõi người
...
Nàng rất thương mến
Đức Bồ Tát, thấy Sudasana biến làm đạo sĩ lên trần gian kiếm Bhuridata nên thưa rằng:






Thưa anh, em đã khổ tâm vì quá thương nhớ anh Bhuridata xin cho em đi theo tìm
anh Bhuridata cùng với vương huynh
...

Em đi không tiện đâu, vì anh đi bằng tướng người đạo sĩ, em là phụ nữ không tinh
khiết cho bậc xuất gia không nên đi cùng anh
...

Ờ như thế thì được
...

Nói về Sudasana đi tìm từ nơi Bồ Tát thọ Bát quan trai giới, theo lời chỉ của các long nữ
vợ của Bồ Tát
...
Anh ta than thở:




Ôi, thầy rắn quá độc ác làm tội em ta cho đến chảy máu còn thấy như vầy!
Ôi! Không rõ em ta nay ra sao? Thầy rắn đem em ta đến nơi nào? Sudasana càng
nghĩ đến càng đau đớn xót xa và than
...


Sudasana khóc than kể lể thật là thảm thiết rồi noi theo dấu chân đi của Alambayana đến
nơi hắn cho Bồ Tát múa nhảy đầu tiên, Sudasana hỏi thăm người có thấy thầy rắn đem rồng
đến nhảy múa trong nơi nào chăng?





Bạch đạo sĩ! Có người thầy rắn đem rồng đến đây cho phần đông xem, cách đây đã
nửa tháng rồi
...

Thưa quý ông nay thầy rắn đem rồng đến đâu?

Nhờ người chỉ giùm nên đạo sĩ lần hồi đến đền vua Bàrànasì
...
Khi vào thành nội, đến giờ diễn kịch, đức vua còn ngự trong cung nội
dạy các quan ra cho phép diễn cho dân chúng xem trước
...
Đức Bồ Tát bèn nghiêng đầu ra
khỏi giỏ ngó xem dân chúng trước khi diễn kịch
...

Các loài rồng nếu thấy Điểu vương thì không dám diễn kịch, vì sợ hại đến sinh mạng
...

Khi Bhuridata liếc xem dân chúng như thế, bèn thấy anh mình là Sudasana biến hình làm
đạo sĩ đứng ở nơi cuối cùng công chúng
...


92

Trong lúc ấy, quần chúng thấy Đức Bồ Tát trườn đến, mọi người hoảng hốt tránh xa,
chẳng ai dám đứng yên tại chỗ, chỉ còn Sudasana, Đức Bồ Tát đến nghiêng đầu xuống nơi
chân anh và rơi lệ
...

Alambayana tưởng rồng của mình đã mổ đạo sĩ nên vội vã đến an ủi đạo sĩ và bạch:


Bạch! rồng có cắn mổ Ngài không? Xin Ngài cho biết để tôi cho thuốc
...


Sudasana đáp:


Nầy Alambayna! Rồng nầy không thể cắn mổ làm cho ta phải đau khổ đau, dù có cắn
mổ cũng không làm hại được ta, ta đây cũng là thầy rắn hay vậy
...


MỘT TRẬN ĐẤU GIỮA RỒNG VÀ NHÁI
Khi Sudasana thốt lời như thế, Alambayana không rõ đạo sĩ là Long Vương, cho là người
tầm thường nên anh rất bình tĩnh anh quay qua tuyên bố với quần chúng:


Xin công chúng đừng khiển trách tôi tại vị đạo sĩ gây chuyện trước
...

Anh dùng rồng, tôi dùng con nhái con để đấu nhau cho rõ tài cao thấp, với số bạc là
năm ngàn lượng
...

Nầy Alambayana! Ta có năm ngàn lượng thật
...
Đức vua nghe qua lấy
làm ngạc nhiên:
Tại sao đạo sĩ nầy đến xin tiền ta vậy?

Ngài suy nghĩ và phán hỏi:

93





Bạch Ngài, đến xin tiền ta nhiều như thế có lẽ Ngài là thân tộc hay bạn thiết của trẫm
chăng
...
Cớ
đó nên tôi mới đến đây xin năm ngàn lượng và xin thỉnh Hoàng thượng ra chứng
minh một chút
...

Đức vua cùng đạo sĩ ra đến nơi diễn “trò” rồng nhái
...


Xét như thế nên có ý lo sợ đạo sĩ
...
Tôi đâu có khinh Ngài hiểu biết thấp hèn
...


Nghe lời khinh bỉ của đạo sĩ, Alambayana càng thêm sân nên đáp:







Nầy ông đạo sĩ mặc y vàng da cọp, dốt nát si mê, ông đến đây dám nói giữa đám
đông rằng rồng không có nọc độc
...

Nầy Alambayana! Nọc rắn mãng xà, rắn nước, rắn lục, còn hơn rồng của ngươi nữa
...

Nầy đạo sĩ! Xưa nay tôi có nghe rằng: người có đức tin là chí thủ nên hộ độ bậc có
giới như bậc A La Hán
...
Ông lại quay về phía người xem nói tiếp: Nay nếu ai là đàn na có vật chi
hãy bố thí mau đi, để rồi đạo sĩ này đền tội với rồng
...

Nầy Alambayana! Nếu ngươi có của nên làm phước mau đi, rồi ta cho nhái con tên là
Accamuji xịt nọc độc cho ngươi thành tro bụi lập tức bây giờ
...

Nàng Accamuji nghe gọi, bèn thực hành y theo lời anh
...


Tiếng thét của Sudasana nghe vang cả thành Bàrànasì rộng mười hai do tuần
...

Vậy đổ xuống đất có được không?
Tâu! Nếu xịt trong đất, sẽ sinh lên nọc độc, làm hại vô cùng
...

Như thế làm hạn hán bảy năm cũng không nên
...

Tâu! Xin hoàng thượng cho người đào ba cái hầm
...

Sudasana dạy lấy củi chất đầy hầm thứ nhất, rồi đem nọc độc đổ vào cho đầy liền dẫn lửa
phát cháy hầm thứ nhất, kế đến hầm thứ nhì, hầm thứ ba cũng thế, cho đến khi cháy hết nọc
độc
...


Đức Bồ Tát nghe tiếng la của Alambayana như vậy, liền bò ra khỏi giỏ rồi hóa ra hình
người xinh đẹp, có đủ cả phục sức, đến đứng trước mặt đức Vua Bàrànasì là bác của Ngài
giống như vị Trời Đế Thích
...

Sudasana bèn tâu hỏi đức Vua:






Tâu Hoàng thượng, ngài có biết chúng tôi là ai chăng?
Trẫm nào có rõ
...

Tâu! Chúng tôi đây không ai đâu xa lạ tức là con của bà Samuddhaji là em gái của
lệnh Hoàng thượng, Ngài là bác của chúng tôi
...
rồi đồng nhau vào cung nội lễ
tiệc rất trọng thể
...

Thuật cho đức vua nghe đầy đủ, xong Đức Bồ Tát thuyết mười vương pháp đến Đức
Vua bác và khuyên ngài gìn giữ mười pháp ý
...

Trẫm đây hằng nhớ tưởng em trẫm là mẹ các cháu, làm thế nào cho trẫm được gặp
em trẫm?
Tâu, ông ngoại của các cháu hiện nay ngự trong nơi nào?
Cháu ơi! Từ ngày mẹ cháu về Long cung thì ông ngoại các cháu rất thương nhớ, rồi
từ bỏ ngôi vàng vào tu trong núi
...
Nay bác
mong gặp mẹ cháu, xin bác đi tìm ông ngoại thỉnh về, rồi chúng cháu sẽ mời mẹ
chúng cháu đến gặp bác và ông ngoại
...

Khi Đức Bồ Tát trở về đến Long cung, tất cả triều thần đều cất tiếng hoan hô chào mừng
Bồ Tát
...
Bồ Tát làm lễ mừng cha mẹ xong rồi, Bồ Tát lui về cung
điện của Ngài an nghĩ để dưỡng sức, vì đã chịu nhiều bề đau khổ trong những tháng vừa
qua
...

Về phần Kanarittha lên thiên cung, tìm không gặp Đức Bồ Tát nên trở về nước
...

Còn Subhoga khi lãnh trách nhiệm đi tìm Bồ Tát khắp núi Tuyết Sơn mà không gặp, bèn
xuống kiếm trong biển cho đến sông Yamana
...


Thế rồi đến sông Yamana anh ta xuống tắm khẩn cầu cho hết tội lấy ân làm oán
...

Khi Subhoga đến nơi đó, vừa nghe lời khẩn cầu của người thợ săn, nghĩ:


Thợ săn nầy là một kẻ bạc ơn, anh ta đem hắn về Long Cung cho hưởng đầy đủ sự
sang cả an vui, nay hắn lại chỉ đường cho Alambayana đến bắt làm khổ anh ta, ta để
hắn sống thế nào được
...

96

Khi thợ săn cất đầu lên khỏi nước bèn hỏi:



Ai nhận nước ta đây, ta đang rửa tội sao nỡ làm khổ ta như vậy?
Nầy thợ săn! Ta là em của Đức Bhuridata con của Đức vua Dasarattha đã đến vây
thành Bàrànasì lúc trước đó, ngươi không biết sao? Ta là loài rồng tên Subhoga
...
Vậy ta nên tỏ lời ca tụng danh đức của Subhoga và
cha mẹ y mong cầu SuBhoga thương xót tha thứ cho
...


Hoàng phụ của Ngài là đại Hoàng Đế cả hai cõi, nơi Long cung và trên trần gian
...
Trong đời này, Ngài là bậc cao sang quân tử, lẽ
đâu lại đến nhận nước thợ săn như tôi thế này, xin Ngài rộng lượng từ bi tha tôi khỏi chết
...
Khi người
còn đi săn, sát hại thú rừng, thú chạy trốn, cha con ngươi đuổi theo cố tìm giết cho
được
...
Nay ta không thể để ngươi sống đâu, ta nghĩ đến tội
của ngươi làm chừng nào khiến ta càng phiền não, ta sẽ chặt đầu ngươi ngay bây giờ
đây
...

Bà la môn thông kinh Tam Phệ Đà như vậy, người không nên giết hại, kẻ nào làm khổ Bà
la môn có đủ ba chi ấy: phải chịu đọa trong địa ngục, bị hành phạt lâu đời
...
Trước khi vào đền, gặp em Kanarittha lãnh phần
gác cửa cho anh Bhuridata
...

Rồi gọi anh Subhoga và các loại rồng hội họp và thuyết pháp về cúng dường lửa của Bà
la môn:


“Nầy anh Sughoga! Sự thông hiểu kinh Tam phệ đà và cúng dường lửa không phải là
thấp hèn đâu, dù cho Bà la môn nào hèn hạ đến đâu, nếu đã được học kinh Tam phệ
đà và cúng dường lửa, người người đều kính phục, chẳng nên làm khổ Bà la môn ấy,
kẻ nào dễ duôi, khinh rẻ họ sẽ bị tiêu tan của cải và hại đến sinh mạng
...
Đại phạm thiên vương là cha của
Bà la môn, Ngài tạo ra tất cả, Ngài chia ra đủ hạng người da đen, trắng, vàng v
...
dòng vua,
quan, dân
...
v
...
Các thí chủ sẽ
được lên cõi trời đều nhờ cúng dường các Bà la môn mà được hưởng nhiều hạnh phúc như
thế
...
Ngài tinh tấn
cúng dường lửa, cung cấp các thầy Bà la môn, nên sau khi băng hà được thọ sinh lên cõi
trời
...

Anh nên biết Bà la môn là bậc đáng cúng dường trong đời
...


Ngài bèn dậy, đi tắm rửa xong lên ngồi trên bảo tọa, gọi tất cả đến nghe
...
Các bậc trí tuệ không bao giờ tin tưởng những điều
ấy
...

98

Lời của em giải đó, anh không nhận một câu nào là chân chính cả
...
Sự cúng dường
lửa không đem người về cõi trời được đâu
...



“Nầy em Kanarittha! Những người đọc đủ kinh Tam Phệ đà, chỉ làm cho những kẻ si
mê lầm lạc, chớ bậc trí tuệ không bao giờ tin tưởng những điều ấy
...


Lời của em giải đó, anh không nhận một câu nào là chân chính cả
...
Những kẻ ngu dốt mới chịu dạy
bảo ấy
...

“ Em Kanarittha! Kẻ ngu dốt lầm lạc theo Tam Phệ Đà làm điều tội lỗi, tạo nghiệp ác,
phản bạn, hành trái với chân lý, khi quả theo kịp sẽ chịu nhiều thống khổ
...


Khi Đức Bồ Tát là bậc giác ngộ giảng thuyết phá tán tà kiến, khiến cho những loài rồng
bộ hạ, nhất là em Kanarittha đều trở về với chính kiến theo y như lời Ngài giảng dạy
...
Đến ngày hẹn, đức vua và các quan ngự đến tịnh thất,
chỗ ngụ của đạo sĩ là Đức Thái Đổ phụ vương của Ngài
...

Khi đức vua đang đàm thoại cùng phụ vương thì các tướng rồng đến, vào quỳ mọp làm lễ
rồi ngồi nơi phải lẽ
...

Khi đó đáng thương xót cho hoàng hậu Samuddhaja, từ ngày xa cách vương huynh là
Sagarabrahma, ngự xuống Long cung đến nay rất lâu, cho đến khi bốn con của bà trưởng
thành, bà mới được gặp mặt anh
...
Khi đã được giải buồn, bà hỏi thăm chuyện trò
cho đến trời hừng sáng
...

Đức Bồ Tát Bhuridata hằng thọ trì giới được trong sạch cho đến ngày tan rã ngũ uẩn,
được sinh lên thiên cung
...


***

42
...
Nàng có một hình dáng
đẹp đẽ, gương mặt xinh tươi, lại thêm sống trong nhung lụa, cả nước không ai sánh kịp
...

Thế nhưng bỗng một hôm đột nhiên tâm nàng phát khởi, nàng muốn bỏ thế sự đi tu
...

Giữa đường có giòng nước suối, nàng dừng lại nghỉ chân, xuống uống nước
...

Đức Phật biết nàng Liên Hoa đã đến lúc độ được nên sai Thiên thần hoá làm một người
đàn bà đẹp tuyệt trần, còn hơn cả nàng Liên Hoa nghìn muôn lần
...

Giữa lúc đang đi nàng Liên Hoa bỗng trông thấy người đàn bà kia, sinh lòng quý mến nên
nàng lên tiếng hỏi:


Bà từ đâu đến đây, chồng con, cha, mẹ, anh em bà ở đâu mà bà đi một mình không
có ai đi cùng với bà vậy?

Bà kia đáp:


Tôi từ trong thành tới đây, đang trên con đường về nhà đây ạ!

Bà lại nói tiếp:


Chúng ta gặp nhau đây, tuy không quen biết nhưng là bạn quần thoa cả chúng ta hãy
lại bờ suối ngồi nghỉ nói chuyện cho vui đi
...

Hai người trở lại bờ suối ngồi, cùng nhau bầy tỏ tất cả nỗi lòng cho nhau nghe, chẳng
mấy chốc mà thân mật
...

Nàng Liên Hoa không hay biết gì cả, đến lúc nghe đầu gối mình lành lạnh nàng mới giật
mình ngó lại thì thiếu phụ kia đã chết tự bao giờ
...

Nàng Liên Hoa thấy thế, tâm nàng sợ quá mới than thở rằng:


Ôi! Người đẹp như thế này mà bỗng dưng chết đi và ghê tởm hôi thối đến mức ấy
...
Nghĩ thế rồi nàng đứng dậy đi đến
núi Kỳ Xà quật tìm Phật
...

Đức Phật dạy:


“Người ta có bốn sự không thể trông cậy được
...


Nàng Liên Hoa nghe pháp vui mừng, tâm lý cởi mở, quán thấy tấm thân như huyễn hóa,
mệnh người thực nhanh chóng, chỉ có Niết bàn là an vui lâu dài
...


Đức Phật dạy:


Lành thay
...


***

43
...
Hai người cũng là con của
trưởng giả ở gần thành Vương Xá
...
Trước nhất đến
xem hát
...



Đời người không khác nào kép hát trong một vở tuồng, khi mang râu đội mão là vua
chúa, có khi vợ chồng làm mẹ con, hoặc khi thù, khi bỏ râu mão, thì là anh kép hát,
cuộc đời thay đổi như thế thì có gì vui đẹp
...
Hai ông mới học đạo với ông Sanjeyya
...

Hai ông thấy rằng đây không phải là con đường giải thoát nên mới cam kết nhau:


Hai ta chia nhau đi hai hướng nếu ai có duyên tìm được chánh pháp trước phải bảo
cho nhau
...
Khi ấy Đức Thế Tôn đã thành đạo và đã có sáu
mươi mốt vị đại A La Hán
...

Đại Đức Assaji là một trong năm vị Kiều Trần Như đi về thành Vương Xá
...
Sáng ngày, Ngài đi khất thực cũng nhằm vào lúc Xá Lợi Phất cũng đi
khất thực xong đến nơi thanh vắng thọ thực rồi mới vào chùa
...
Trông thấy tướng mạo trang nghiêm của Ngài Assaji
ông phát tâm kính thành và nghĩ rằng:


Từ xưa nay ta chưa từng thấy bậc xuất gia nào có hạnh kiểm trang nghiêm như thế
này, và cũng chưa từng có vị nào đắc quả A La Hán mà vị nầy có lẽ là một trong các
vị A La Hán chăng? Vậy ta phải đi theo đến chỗ vị nầy để hỏi phép giải thoát
...


Nghĩ thế ông cứ theo sau Đại Đức mãi
...
Ông Xá Lợi Phật biết ý lật đật lấy tọa cụ của ông mang theo trải ra
cho Đại Đức ngồi, và lấy bầu nước đem dâng cúng, rồi ông ngồi hầu một bên
...
Tôi xuất gia với
Ngài, và học đạo với Ngài
...

Nghĩ thế nên Ngài nói:



Nầy đạo hữu tôi cũng mới vừa xuất gia theo đức Phật, tôi không thể giảng lý đạo cho
rõ được
...


Đại Đức thuyết một câu kệ, nghĩa tạm dịch như sau:


“Những pháp nào sinh lên đều do nhân, một khi nhân ấy diệt thì các pháp ấy cũng
diệt theo
...


Sự thật theo câu kệ này Ngài Assaji chỉ về ba điểm Điệu Đế, Ngài không nói về Đạo Đế,
mà điều quan trọng nhất là Diệt Đế
...
Vậy Đấng Giáo Chủ của chúng ta Ngài ngự
ở đâu?
Ngài ngự tại Trúc Lâm Tịnh Xá
...
Rồi ông nói
với Đại đức Assaji:
Tôi còn phải tìm người bạn tôi để chỉ chân lý cho bạn tôi
...
Ông
Mục Kiền Liên cũng đắc quả Tu Đà Hườn
...

Vậy hai ông đi theo Thầy Cồ Đàm đi, để kẻ ngu dốt cho ta
...

Năm trăm đệ tử của ông Sanjeyya đều đi theo hai ông
...

Trường hợp của ông thật đúng như lời dạy: Người nhiều ngã mạn, thà làm đầu con cầy chớ
không chịu làm đuôi con sư tử
...

Như Đức Phật đã dạy, sự nhẫn nại, hạnh kiểm để sửa dạy sự được thấy, được gặp các bậc
Sa Môn và tính cách biện luận về Phật Pháp theo thời là bốn điều an lành cao thượng
...

103

***

44
...

Một hôm vua Milinda hỏi Đại Đức Nagasena:



Bạch Ngài tên thật Ngài là gì?
Tâu bệ hạ bạn đồng đạo gội tôi là Nagasena, nhưng đó chỉ là một cách để phân biệt
một tiếng gọi, một lối nói cho tiện, một cái danh để trỏ chớ trong đó không có người
Nagasena
...
Lại nữa, ai bảo tồn đạo lý, ai ngồi tham thiền, ai
hành đạo
...


Như vậy tôi có thể nói: Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni ơi! Các người không có ai là thầy,
không ai là người giảng dạy, không ai là người truyền đạo pháp nếu Đại đức nói:
“Nầy các huynh, nhà vua gọi ta là Nagasena thì Nagasena là gì?”
Bẩm Đại Đức, xin Ngài giảng cho hay là tóc trên đầu Ngài là Nagasena?








Không
...
v
...

Hình sắc kia có phải là Nagasena không?
Không
...

Thế thì không có chi là Nagasena cả, vậy Nagasena là gì?
Thưa không là gì cả
...


Bấy giờ Đại Đức trông thấy cái xe của nhà Vua liền hỏi vua Milinda:









Tâu Bệ hạ, Ngài tới đây đi bộ hay đi xe?
Đi xe
...

Phải bánh xe là xe không?
Không
...


Hỏi mãi cả hàng chục câu nữa như thế, không có cái chi vua Minlinda có thể chỉ được là
cái xe
...


Cuộc đàm thoại lý thú trên đây đã chứng minh cho sự thật của lý duyên sinh, vô thường
vô ngã trong Phật giáo, Một sự thật, không ai có thể chuyển đi hay phủ nhận
...

Duyên sinh một nguồn sống vô tận:
Ta thấy sự vật không phải là những cá thể nhất định riêng biệt độc lập mà là những “phần
tử” của một khối, “toàn thể” những phần tử ấy có một xã hội tính tức là tính “nhân duyên
sinh”
...

***

45
...
Oai đức của nhà vua rất to, uy tín lan rộng khắp nơi nhưng Ngài cũng còn chưa mãn ý
...
Mặc dù ta dùng đức trị dân đem tài lực để giúp người, song
đó chỉ là nuôi sống phần vật chất, không được vĩnh cửu
...
Ta phải tìm làm sao cho ra “Pháp tài chơn thật” để cho mọi người
cũng nhờ đó mà được giải thoát mọi sự khổ não ở đời, được thế ta mới khỏi ân hận
...
Qua một thời gian khá lâu, không thấy ai đáp lại lời
kêu gọi của nhà vua
...

Người ngoài cuộc, ai trông thấy cũng phải cảm động và thương hại cho Ngài
...
Quỷ đi đến chỗ nhà
vua, hô to lên rằng
...


Nhà vua nghe thế mừng lắm, vội đến tiếp nghinh, mời ngồi tòa cao, làm lễ đúng phép để
cầu nghe, quên cả sợ hãi
...

Thân người khó được, chính pháp khó gặp, đâu phải qua những nghi lễ tầm thường
kém vẻ tôn trọng như vậy mà có thể nghe được
...

Quý lắm, nhà vua hãy đem hoàng hậu và hoàng thái tử đến cho ta ăn, xong rồi ta sẽ
nói pháp cho nghe
...


Trong khi ấy, tất cả triều thần đều nhao nhao phản đối:


Bệ hạ làm thế tàn nhẫn lắm, chúng tôi không tán thành
...


Nhà vua vẫn bình tĩnh
...
Chỉ có chánh pháp mới là
đáng quý, vậy dù đổi tính mạng ta, ta quyết cũng không từ
...
Tiếng kêu than náo động
cả kinh thành, mong làm chuyển được lòng cương quyết của nhà vua, để Ngài xua bỏ ý
định
...

106

Quỷ Da Xoa sau khi ăn xong hoàng hậu và hoàng thái tử, liền vì nhà vua mà nói bài kệ
rằng:
“Tất cả các hành đều vô thường
Có sanh đều có khổ
Nằm ấm không thật tướng
Không ngã và ngã sở”
Ý nghĩa của bài kệ nêu lên năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hòa hợp gọi là thân, song
năm ấm biến chuyển không thường bên thân con người thoạt còn, thoạt mất không có cái gì
là “ta” cũng như không có cái gì là “ta cả”, chẳng qua cũng như những bóng trong màn ảnh,
trên sân khấu hay những giả cảnh trong chiêm bao mà thôi
...
Người phàm phu không nhìn thấy sự thật của sự vật luôn
luôn chấp cho là thật cảnh, nên khi được thì vui mừng mà mất lại sinh đau khổ
...

Lúc ấy vị Tỳ Sa Môn Thiên Vương hiện lại nguyên hình và không tiếc lời khen ngợi:


Quý hóa thay! Cao cả thay! Tâm trọng pháp của nhà vua không ai sánh bằng! hoàng
hậu và thái tử xin hoàn lại vẫn không sao cả, chẳng qua chỉ để thử lòng nhà vua mà
thôi
...

Vua Tu Lầu Bà (là tiền thân Đức Phật Thích Ca) đã làm một việc đáng cho người đời suy
gẫm
...
Làm được
một việc rất khó như thế mới quý
...

Ngài Thường Đề Bồ Tát bán tâm can mình mà cầu nửa bài kệ
...
Khoét thân mình thành lỗ để đốt đèn cúng dường cầu
pháp thì có hai Ngài Dược Vương, Dược Thượng, những gương trọng pháp khinh thân như
trên rất xứng đáng cho muôn đời soi chung vậy
...
- PHỤNG HÀNH CHÁNH PHÁP
Ngày xưa, có vua Mi Lan Đà hỏi vị Tỳ Khưu Na Tiên:
107



Sa môn có yêu tấm thân mình không?

Na Tiên đáp:


Là Sa Môn thì đâu còn màng đến chuyện tự yêu thân nữa

Vua nói:


Nếu chẳng tự yêu thân sao còn ở nhà ấm, ăn thức ngon và tự muốn bảo vệ lấy nó?

Na Tiên gạn lại:



Đức vua đã từng vào trận chiến chứ?
Có, tôi đã có vào trận chiến
...


Na Tiên hỏi tiếp:








Khi vào trận ngài đã có bị thương chưa?
Đã có bị thương, vì mũi dao và tên
...

Vì yêu vết thương mà Ngài băng bó hay sao?
Chẳng phải yêu vết thương
...


Tỳ Khưu Na liền thuyết:


“Các vị Sa Môn cũng thế
...


Vua Milanda vô cùng khen ngợi và từ ấy được giác ngộ
...
Bồ Tát nếu khi phải dùng áo chẳng vì thân, mà chỉ vì pháp cho nên chẳng
kiêu mạn mà phải thấp xuống: chẳng vì trang sức chẳng vì xấu hổ mà chỉ vì che lạnh
nóng, gió độc mà thôi
...


108

Ngài lại kể câu chuyện Ngài thuyết với Ngài Văn Thù: Vì bảo vệ và mong cho cái thân
sung sướng mà chúng sinh không có đức từ bi, ôm lòng sát hại lẫn nhau
...


***

47
...
Tại biển cả có một cây nổi lênh đênh, khi đông, khi tây, vì bị
sóng dập gió dồi liên tiếp mà trong thân cây chỉ có một cái lỗ
...
Cho nên chắc chắn khó mà gặp được
...
Vậy nên chính các người ngày nay phải tinh tiến tìm mọi phương
tiện phát khởi tâm muốn học đạo càng tăng cao mới được
...
Được thì mừng vui mài miệt, khư khư ôm giữ lợi lộc
danh vọng ấy, không bao giờ chịu rời bỏ dù phải trả với bất cứ giá nào để củng cố chúng
bền vững mãi mãi
...

muốn dù không cũng không sao cản ngăn được
...

Cũng vì cái thân ta, cái cá nhân vị kỷ của ta mà ta không còn biết đến ai khác ngoài ta
...
Lợi danh ít thì giết nhau ít,
nhiều thì giết nhau nhiều, không lợi danh thì lại giết nhau đánh nhau vì những việc khác
...
Gia đình tranh với gia
đình, xóm làng với xóm làng, nước nầy với nước nọ
...

Vì lợi danh là một thảm họa khốc hại không thảm họa nào sánh bằng nên Đức Phật đã
dạy nên giảm bớt sự tranh dành quyền lợi, vì quyền lợi có một sức mạnh huyền bí thúc đẩy
109

loài người nhúng tay vào bất cứ một hành động tội ác nào miễn sao chiếm được chỗ ngồi tối
cao của hai chữ lợi quyền là mãn nguyện ấy
...
- CẠM BẪY CỦA TRẦN GIAN
Trong bộ chú giải Visuddhimagga có sách: trần cảnh như một thứ nhựa rất dẻo và rất
dính
...

Có một con khỉ lại gần, thấy nhựa tưởng là tấm nhung bèn ngồi lên, bị dính cứng vào
nhựa
...
Khỉ tìm đủ cách để thoát thân nhưng vô hiệu quả, sau rốt khỉ
dùng miệng để cắn mong gỡ nhựa thì cả mồm cũng bị dính luôn
...

Riêng người không mắc phải nhựa ấy
...
Khi còn nhỏ ở trong gia đình thư thả, sau
có vợ là bắt đầu dính, như khỉ dính cái mông, sau có con như khỉ dính hai tay, có tiền của
cũng như khỉ mắc thêm hai chân, đến lúc có quyền cao chức trọng càng dính như khỉ mắc
luôn cả cái mồm chỉ còn ngồi đó chịu chết thôi
...
Không cho tâm si mê trong trần cảnh nữa
...
Không ai hiểu nghĩa ấy ra sao
...

thương con, nên không tu hành gì được chỉ lo kinh doanh để sự nghiệp lại cho con,
mà quên mình già và chết
...
Vì thưong mến vợ con nên không thể đem tiền của ra
giúp đỡ đồng bào, vì sợ hết tiền của cho vợ con dùng, vì vậy nên của như sợi giây cột
tay
...
Thật ra tâm người bao giờ cũng còn
mến tiếc ba điều kể trên như sợi dây cột chặt lại không bao giờ giải thoát được
...
Như kinh sách đã nói, thiền định là nấc thang thứ nhì (sau giới) để đi
đến nơi giải thoát
...

110

***

49
...
Cũng như gương lành của ngài Đại
Đức Anuruddha Ngài là giòng Thích Ca được kế vị ngôi vua của Đức Tịnh Phạn Vương
...
Khi Ngài ở những nơi ấy
thường cho là rất sung sướng và nói rằng:


Hạnh phúc thay! Hạnh phúc thay!

Các vị Tỳ Khưu nghe vậy mới vào Bạch Đức Thế Tôn:


Ngài Anuruddha có ý muốn khoe mình về đạo quả
...

Tại sao ngươi nói vậy?
Bạch Đức Thế Tôn! Khi đệ tử còn trị vì, có thành trì kiên cố, có ngự lâm quân canh
tuần nghiêm nhặt, nhưng đệ tử vẫn còn e ngại có kẻ thích khách
...


Vì đệ tử trông thấy quả hạnh phúc của sự không có quyền tước của cải như vậy nên đệ tử
hằng nói rằng:
Không có hạnh phúc nào bằng đời sống đạo hạnh
...
Hạnh
phúc thật sự là sự không lo sợ mất còn
...
Vì vậy, muốn cho lòng mình được thơ
thới thì chỉ có trì giới tham thiền mới nếm được hương vị của sự ấy
...

Chuyên cần không xao lãng tức là kính trọng thiền định
...

111

Nhất là các bậc xuất gia, thiền định lại là điều quan trọng hơn hết nhờ có thiền định là nấc
thang thứ nhì của sự giải thoát đến Niết Bàn vậy
...
– BÊN TIẾNG ĐÀN CUNG NỮ
...
Một hôm vào núi săn bắn chơi
Thiện Dung gặp mấy ông Phạm chí ở trần truồng tu khổ hạnh trông thấy rất thương tâm,
nhưng chẳng được quả vị gì
...
Khí lực mòn mỏi,
thân thể tiều tụy mà không diệt trừ ái dục được huống chi các ông Sa Môn họ Thích
ăn sang, mặc đẹp, ấm lạnh theo mùa, ở nhà cao, nằm giường kỷ hương hoa thơm tho
làm gì vô dục được
...
Ngài thở ra: Ta chỉ có một
đứa em mà chẳng may nó sanh lòng tà kiến e sẽ bị đọa đày nhiều kiếp, ta nên tìm cách trừ
ác niệm cho nó mới xong
...
Nhà vua lại cho mời một vị đại thần thân tín đến
bàn riêng:


Trẫm có lập một chút mưu
...
Mọi việc khác để
trẫm lo liệu
...

Nhưng chưa được bao lâu thì nhà vua giả bất ngờ đi đến
...

Trước mặt các quan và Thiện Dung, nhà vua giả bộ buồn rầu nói:


Trẫm chưa già yếu gì, biên cương cũng yên lặng chẳng có giặc giã xâm lăng muôn
dân đang sống trong cảnh thái bình, no ấm
...

Nhưng may mà ta tự xét ta chưa đến đỗi phải lâm vào cảnh bi đát khó khăn ấy
...

Các quan đều ngơ ngác trước cơn thịnh nộ bất thường của Nhà vua, bỗng có một vị đại
thần tâu:


Cúi xin Đại Vương tha lỗi cho lời tâu của kẻ hạ thần nầy
...


Nhà vua giả vờ lặng lẽ, đợi cho một vài vị đại thần khác thấy ý hay, thêm lời can gián
mới gật đầu ưng thuận
...


Nhà vua lại dặn riêng vị đại thần kia:


Ngươi mặc áo giáp cho oai cầm chiếc gươm thiệt bén và đến chỗ Hoàng đệ bảo rằng:
“Tâu Vương Tử mãn hạn bảy ngày bắt đầu từ nay thì Vương Tử phải bị giết
...
Vậy nên Vương Tử nổ lực mở tung năm căn
mà hưởng năm món dục lạc cho thỏa chí, tận hưởng đến cùng kẻo uổng
...


Qua ngày đầu vui say vị đại thần đến bảo cho Thiện Dung biết chỉ còn sáu ngày nữa là
hết hạn
...
Hôm ấy vị đại thần đến nói với Thiện Dung:


“Thưa Vương Tử, đã hết sáu ngày rồi, sáng mai đây Ngài phải ra pháp trường mà
chịu chết, vậy hạ thần khuyên Ngài phải cố hết sức mà hưởng mọi khoái lạc kẻo rồi
xuống suối vàng lại tiếc
...

Ông đổi giọng nói tiếp:



Sao Ngự đệ dám lộng ngôn với Trẫm như thế?
Tâu Vương huynh, Thiện Dung đáp - người đáng chết như Hoàng đệ tuy là mạng căn
chưa dứt nhưng so với người đã chết chẳng khác mấy, thì còn lòng dạ nào mà hưởng
vui sướng gì nữa
...
Khi nghe thân sắp chết, tuy hiện ở trong cảnh ngũ dục mà chẳng thấy vui thú
...


Vì các Ngài nghĩ việc cay đắng này, nên mới xuất gia tu đạo để tìm phương pháp vô vị
đạo thế
...
Cúi xin
Vương huynh cho Hoàng đệ được xuất gia cầu đạo cẩn thận mà tu trì
...

***

51
...

Thuở xưa ở Ấn Độ, có một ông trưởng giả giàu nứt đố, đổ vách nhưng hết sức keo kiệt
...
Thật đúng
với câu: “Vi phú bất nhân” ông không có chút từ tâm, lúc nào ông cũng bừng bừng sát khí,
hung bạo, tàn ác
...

114

Trong nhà ông có bà lão bộc, làm công việc quần quật suốt ngày không có lúc nào hở tay
...

Tấm thân gầy, rách rưới cơm áo không đủ no cái dạ dày lép xẹp
...
Có lẽ vì đau khổ quá, cực nhọc quá, nên nhiều khi bỗng nhiên bà rơi
nước mắt, rồi bà khóc thực sự, khóc cho thân thể bị dày vò, khóc cho tình đời đen bạc, trọng
phú khinh bần
...
Trong đầu óc
bà lúc ấy lại thoáng hiện ra những sự hành hạ đánh đập chửi rủa tàn nhẫn vô lương tâm của
ông chủ
...

Tội nghiêp, bấy giờ bà chán sự sống lắm
...
Bà nghĩ là phải chết đi, chết để giải quyết tất cả mọi nỗi đau khổ, loài
người đen bạc đã cố ý đày đọa bà
...
Bà để mặc cho hai dòng lệ tự do tuôn chảy,
không buồn chậm lau
...

Phải rũ cho hết nợ đời chứ sống mà thân xác cùng linh hồn bị dày vò đày đọa quá sức thì
chết đi còn hơn
...
Mãi đến lúc Tôn Giả cất tiếng hỏi, bà mới giật mình:
-Sao thế? Sao bà lại khóc lóc quá như thế? Ai ăn hiếp bà, ai hành hạ đánh đập bà?
Bà lão vẫn còn nghẹn ngào, không mở miệng trả lời được, bà chỉ dương đôi mắt mờ lệ
nhìn Ngài trân trối
...

Bạch ngài, Ngài xem tôi chừng này tuổi mà phải làm tôi mọi cho người ta, công việc
làm vất vả suốt ngày thâu đêm, lại còn bị chủ nhà ác nghiệt, bó buộc, đánh đập hành
hạ khổ sở
...
Tôi thấy bà khổ sở nên
khuyên bà bán ngay nó đi, tôi thương bà tôi bảo thật đấy
...

Được, tôi xin hứa chắc với bà và nếu bà nhiệt tình muốn bán, thì tôi bảo như thế nào
bà phải làm đúng như vậy, mới có kết quả tốt đẹp được
...

Bây giờ bà hãy xuống sông tắm cho sạch sẽ, Thân thể bẩn thỉu quá sẽ có thể sinh ra
nhiều bệnh tật, vả lại ai cũng chán chẳng dám dến gần
...
Vì Phật đã dạy: pháp bố thí là để cho người vượt khỏi lòng
tham lam mà cái tham lam là nhơn bần cùng của khổ sở
...
Vì vậy muốn hết nghèo cùng bà phải dứt lòng tham lam,
còn phải thực hành phương pháp bố thí
...

Trời đất ơi! Ngài bảo tôi bố thí để dứt lòng tham, nhưng tôi có tham hồi nào đâu? Tại
tôi nghèo cùng đến nỗi giơ xương lòi da như thế này tôi đào đâu ra của để mà bố thí
thưa Ngài
...
Tôi không biết làm cách nào để vừa lòng Ngài
...
Miễn già đây làm y theo lời của Ngài là vui lắm rồi
...

Cũng được, miễn có lòng thành kính là được, không luận ít nhiều
...


Tôn Giả Ca Chiên Diên tiếp nhận bình nước sạch do tay bà lão múc về dâng
...

Đoạn Ngài hỏi:


Bà có chỗ nào để ở cho thật sạch không?
116




Bạch không, nếu lúc tôi xay lúa thì nằm ở cối xay mà ngủ, khi làm việc gì đến lúc
mệt thì tôi nằm ngay tại chỗ mà ngủ, không có chỗ nào nhất định
...
Tối đến, đợi khi trong nhà ngủ hết, bà hãy lén mở cửa lên nhà trên ngồi
xếp bằng ngay ngắn niệm Phật, tâm đừng nghĩ gì khác, chỉ nên nhất tâm niệm Phật
mà thôi
...


CỞI SẠCH NỢ TRẦN
Bọn đầy tớ nhà ông trưởng giả rạng ngày mở cửa nhà trên giật mình cả sợ, tri hô lên
...
Bây đâu,
hãy đến gần xem mụ ta đã chết lâu chưa? Nếu thật chết bay cột chân kéo xác vào
rừng cho quạ hay kên kên ăn quách đi là xong chuyện, cái của nợ ấy ghê tởm quá
...
Mau lên!!!

Bọn đầy tớ lúi húi tìm dây cột chân theo lời ông chủ, nhưng ra khỏi ngõ chúng lấy tấm bố
đắp điếm lên thân bà lão xong rồi chúng ráp nhau khiên xác bà lão đem bỏ trong rừng lạnh
không thèm đậy lên một vài lát đất
...

Bây giờ ở trên cõi trời Đạo Lợi có một vị thiên tử hết quả phước nên phải hoàn sanh nhân
gian
...
Nhưng vì ham vui chơi theo khoái lạc của thiên đình mà quên nguyên do gì
mình được sanh lên đây
...

Ngài bèn đến lân la dò hỏi để kích thích đạo tâm sẵn có của vị thiên tử nọ:


Phàm việc gì có ra điều có nguyên nhân cả, hẳn Ngài đã biết mình từ đâu đến và do
nguyên nhân gì mà được cảm quả báo sanh làm thiên tử trị vì muôn dân như hôm nay
chứ?

Đấng thiên tử cùng các quyến thuộc còn đang ngơ ngác chưa hiểu ra sao cả, thì Ngài Xá
Lợi Phất liền truyền đạo nhãn cho thiên tử xem thử
...
Liền đó, ông ta họp
117

cả năm trăm quyến thuộc bái lễ Ngài Xá Lợi Phất rồi cùng nhau mang hương hoa xuống
ngay khu rừng, xông hương, rải hoa cúng dường tử thi bà lão bộc vô phước trước kia
...
Nhà ông trưởng giả nghe nói
cũng đưa cả gia đình tôi tớ đến xem và ai cũng ngơ ngác trước quang cảnh lạ lùng ấy
...

Khi bà ấy còn sống người ta còn ghê tởm ít dám đến gần thay, phương chi nay bà đã
chết rồi, có gì quý lạ mà các Ngài đến đây rải hoa cúng dường
...

Đoạn vị thiên tử xoay mặt về phía tịnh xá tưởng đến Tôn Giả Ca Chiên Diên
...
Nào là luận về pháp bố thí, giữ giới,
niệm Phật, lìa dục v
...

Nghe xong năm trăm vị trời ấy tâm được xa lìa trần cấu chứng nhãn thanh tịnh, đồng bay
về thiên cung
...
Ông trưởng giả bây giờ
mới sáng mắt và mới nhận được cái giá trị của con người không phải ở vật chất mà chính ở
tinh thần vậy
...
-CON THỦY QUÁI BIỂN ĐÔNG
Ngày xưa ở biển Đông có một con thủy quái tên là Maraca, vô cùng ích kỷ, vô cùng tự
phụ, và cũng vô cùng tàn bạo
...

Mỗi bữa ăn, nó ăn hết số cá mà một chiếc mành phải làm trong một ngày
...

Đứng trước cảnh tượng diệt vong, loài thủy tộc phải làm thế nào, biết tìm đâu một chỗ để
trốn tránh đây? Ở dưới nước hay tận đáy bể cũng như trên đất bằng, không có lấy một chỗ
dung thân
...
Nhưng vừa khỏi mặt nước, đâu lại vào đó, con vật lại sa vào bể cả, vì
cánh chưa mạnh, và chưa quen bay
...
Thế rồi cũng như loài cá, dù bơi lặn, dù lớn hay nhỏ,
118

những con vật có lông hay có cánh đều bị nghiến ngấu
...
Không bao giờ nó có ý nghĩ
rằng rồi mình cũng có ngày bị ăn thịt
...
Nhưng ở đời đâu có phải mọi việc điều nằm yên một chỗ? Loài cá, con thì bị
ăn thịt, con thì chạy trốn nên trong bể thưa dần
...

Hắn nghiến răng, cắn lưỡi, vùng vẫy bơi lội khắp nơi nhưng bốn bề vắng lặng
...

Nó quật lung tung nhưng không có tăm hơi một con cá nhỏ nào trong dòng nước nổi sóng
...

Biết làm sao bây giờ? Nó lại bơi lội xục xạo, sóng gió nổi lên khắp nơi
...

Tình trạng giống như con hươu bị chạy đuổi đến khi kiệt sức theo mùi xạ từ cổ nó phát ra
...
Cái mùi thơm
ngon từ mình nó lại theo nó mãi
...
Một cảm giác vừa đau đớn, vừa hoan lạc nổi lên
...

Đến lượt biển cả lại ăn thịt nó
...


***

53
...
Vua A Xà Thế Vương niềm nở nói với các đại thần:


Các khanh! Quả nhơn rất bằng lòng và thoả mãn! Các khanh đã lo liệu quá ư tươm
tất cho buổi lễ cúng dường Đức Phật và Giáo Hội
...


Đại thần Kỳ Bà đứng dậy, ngần ngừ trong giây lát rồi thong thả tâu:


Tâu Đại Vương, ngoài sự cúng dường trai phạn và y phục mà Đại Dương đã dâng lên
Đức Chí Tôn và Giáo Hội, theo thiển ý của thần thì không việc gì có ý nghĩa hơn
việc cúng dường ánh sáng
...
Cũng vậy Đức Phật và Giáo Hội đến đâu là si ám và tội
lỗi tiêu sạch
...
Tiện đây cũng nhờ khanh thay quả
nhơn sắm sửa cho thật nhiều đèn để tối hôm nay dâng lên Đức Phật và Giáo Hội tại
Tịnh Xá Kỳ Hoàn
...
Buổi tiệc linh đình tiếp diễn trong tình thân mật giữa nhà vua
và các vị cận thần
...

Hỏi ra thì biết những lễ vật nhà vua đem đi cúng dường Phật và Giáo Hội
...

Mặt bà vui hẳn lên, bà rất tán thành việc làm có ý nghĩa của Đức vua, nhưng lúc xét lại tự
thân, bà thấy mình nghèo khổ thiếu thốn chưa làm một công đức nào đối với Đức Phật và
Giáo Hội cả nên đâm ra buồn tủi
...

Bà cho tay vào bị và moi móc hết ra vỏn vẹn chỉ được có hai đồng tiền
...

Mua làm gì? Bà sao không đi mua đồ ăn lại đi mua dầu? Nhà cửa đâu mà dầu với đèn?
Thưa cậu, tôi nghe các cụ tuổi tác trong xóm bảo: “Ngàn năm một thuở Đấng Giác
Ngộ mới ra đời một lần, tôi may mắn được gặp nhưng chưa có lễ mọn nào để dâng
hiến lên Ngài
...
Vừa rồi được biết Đức Vua A Xà Đế
Vương sửa soạn cây đèn để dâng lên Đức Thế Tôn và Giáo Hội
...

120

Nghe bà lão hành khất tỏ nỗi sự tình và tấm lòng chân thành với Đấng Giác Ngộ, người
chủ quán nhìn bà một cách cảm mến và hạ giọng:


Hai đồng tiền chỉ được hai muỗng, nhưng tôi xin tặng ba muỗng nữa là năm
...


Cảm ơn chủ quán, bà ra về với niềm hoan hỷ của người được kẻ khác biểu đồng tình và
giúp mình trong việc phước thiện
...

Cảnh vật chung quanh Tịnh Xá tưng bừng vui nhộn lên
...
Và người ta vẫn còn nghe rõ những lời ca ngợi
công đức của những cận thần thay nhà Vua tán tụng Đức Phật và Giáo Hội
...

Bà lão hành khất khi chiều cũng đã tiến mau về phía dòng người và dừng bước trước
hàng ánh sáng, vội vàng rót dầu vào cây đèn mà bà đã lau sạch và thay tim ở nhà
...
Đáng ra phải nói đây là những lời thệ
nguyện:


“ Nếu quả thật sau này tôi được giác ngộ và giải thoát như lòng tôi mong muốn trong
phút cúng dường Đức Phật hôm nay thì số dầu ít ỏi này cũng làm cho áng sáng của
cây đèn này sáng mãi không tắt
...

Suốt đêm hôm ấy, tuy có những đội lính thay nhau lo việc châm dầu, thắp lại, nhưng
trong số đèn của nhà Vua ít có cây được hoàn toàn
...
v
...

Sáng hôm ấy Đức Phật gọi Tôn Giả Mục Kiền Liên bảo ra tắt những cây đèn còn đỏ
...
Đến lượt cây đèn của bà lão hành khất, thì ba
lần Tôn Giả quạt mạnh nhưng ánh sáng cũng không mất
...
Tôn Giả Mục Kiền Liên và những
người chung quanh mục kích cảnh tượng khác thường ấy tỏ vẻ ngạc nhiên và cho đó là một
cây đèn thần kỳ lạ chưa từng thấy
...

Câu chuyện này đến tai vua A Xà Thế Vương, Ngài cho vời đại thần Kỳ Bà đến để thuật
lại câu chuyện và hỏi:
-Kỳ Bà! Khanh đã biết quả nhơn làm rất nhiều công đức nhưng không thấy Đức Thế Tôn
dạy gì về quả báo của quả nhơn, mà bà già hành khất chỉ cúng một cây đèn lại được Ngài
thọ ký là nghĩa làm sao?
Đại thần Kỳ Bà nghiêm nét mặt và đứng yên
...


Đôi mắt Kỳ Bà sáng lên
...

Nghe đại thần Kỳ Bà phân tích tỷ mỷ về động cơ của sự cúng dường, A Xà Thế Vương
sau một hồi tự xét lại bản thân nhận thấy lời vị đại thần rất đúng với tâm địa của mình
...


***

54
...

Có một con khỉ sống với đàn khỉ trên cây cao gần bờ sông, nhằm đoạn sông có rất nhiều
cá sấu lớn
...
Mẹ thèm ăn trái tim
khỉ lắm
...

Cá sấu mẹ nói:
-Trí khôn của con để đâu? Hãy chịu khó suy nghĩ đi và tìm một mưu chước sẽ bắt được
không khó
...

Cuối cùng nó nghĩ ra được một kế và tự nói:
-À, cách này diệu lắm! Ta sẽ có thể bắt một con khỉ trên cây kia
...

Nghĩ thế, cá sấu ta bơi tới sát cây con khỉ đang ở
...

Khỉ đáp:
-Nhưng làm sao tôi đi được, anh sấu? Tôi không biết bơi lội kia mà?
Cá sấu nói:
-Ồ có khó gì! Tôi bơi chở anh ngồi trên lưng tôi, thế là hai chúng ta cùng nhau qua bên
hòn đảo kia
...

sấu cả mừng vì thấy mình đắc kế liền bơi ra giữa sông
...

-Thật vậy chăng? Anh có thích như vậy không?
Dứt lời cá sấu lặn xuống
...

Khi cá sấu nổi lên lại, con khỉ sặc cả nước và ngạt thở muốn chết, khỉ nói:
-Anh sấu sao lại dìm tôi xuống nước như vậy, anh sấu?
Cá sấu trả lời:
-Tôi muốn giết anh đó, vì mẹ tôi muốn ăn trái tim khỉ, và tôi sẽ mang trái tim anh về cho
mẹ tôi
...
Nếu biết thế thì tôi đã đem trái tim theo với
tôi rồi
...
Tôi để hết trên cây rồi
...
Nhưng
khoan đã! Chúng ta đến hòn đảo kia ăn trái cho no say cái đã rồi sẽ bơi về, không chậm đâu
mà sợ
...
Ta dại gì cho nó ăn no
...

Nghĩ thế sấu con bơi quay trở lại đến gốc cây, nơi con khỉ ở lúc nãy
...
Ngồi
yên trên cao, khỉ nhìn xuống miệng cười oác oác nói với cá sấu:
- Nầy anh bạn sấu! Trái tim của tôi ở trên cây này đây, anh có muốn lấy về cho mẹ anh
thì chịu khó trèo lên cây mà lấy
...

Cá sấu con ở dưới nước tức giận, biết mình bị lừa
...
Nhưng không sao tìm được mưu chước nào khác nữa
...


***

55
...

Ngài có bảy người con trai đã trưởng thành và bảy hoàng tử ấy điều được nhậm chức rất
trọng yếu của triều đình để trấn giữ trong bảy nước chư hầu
...
Nhưng
vì điều kiện quan trọng cho vận mạng xứ Thần Châu sau này, nên hoàng đế đã bao ngày
bàn luận với quần thân để ngăn ngừa hậu quả của chiến tranh gành giựt ngôi vua, song rốt
cuộc cũng chẳng tìm được một biện pháp nào thích ứng cả
...

Không một bóng vũ nữ, chẳng có một điệu đàn, những lồng đèn của cung điện và vườn
thượng uyển đã được thấp sáng
...
Một lúc
sau ta lại thấy bảy bóng ngự lâm quân chạy vụt ra ngoài và nhảy vội lên lưng bảy con hồng
124

mã to lớn, ra roi sải đi như bay…với trách vụ sứ thần đem chiếu chỉ nhà vua vượt ra biên
thùy để trao lại cho bảy hoàng tử hầu triệu gấp về triều
...
Tại ngân loan điện,
bảy hoàng tử cúi đầu tung hô vạn tuế xong, họ đều hồi hợp chờ đợi lệnh
...
Chiếu theo lệnh ta, các con không được mang theo cận tướng, quân sĩ và hộ
vệ, các con chỉ được phép dẫn vợ các con thôi! Nếu các con không tuân lệnh, thì ta sẽ đem
quân binh đi tróc nã chiếu theo luật khi quân phản quốc để trị tội
...

Sau khi bái biệt phụ vương, mẫu hậu cùng triều thần văn võ, bảy vị hoàng tử ngậm ngùi
dắt vợ lên đường với nhiều tâm sự đau buồn nhắm phương nam trực chỉ
...
Đến một hôm
kia, họ bị lạc vào bãi sa mạc mênh mông và mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng không làm
sao ra khỏi được
...
Người bị phanh thay xé thịt đầu tiên là vợ của vị hoàng
tử thứ bảy
...
Đến một nơi kia, vì quá
đói khát, nàng Lệ Hồ không thể đi được nữa
...
Đi thẳng thét đến đứng bóng, thì đến một nước kia
...
Đến một hôm kia, được nghe tiếng rên la dưới sông, Minh
Dũng liền chạy ngay xuống bờ sông và bắt gặp một người cụt cả hai chân đang oằn oại khổ
sở
...

Trong thời gian chung chạ với nhau, nàng Lệ Hồ và tên cướp lén lút trao đổi ái ân
...

Thế rồi một buổi sáng kia, nàng giả vờ đau nằm liệt giường liệt chiếu, rên la thảm thiết
...
Mà mãi đến bây giờ chúng ta vẫn chưa thiết lễ tạ ơn, nên chắc thần núi quở bắt
em
...

125

Vì thương vợ, nên Minh Dũng nhận chịu chẳng nghi kỵ chi cả
...
Nhưng Minh Dũng không chết được vì được người cứu giúp và trở
về làm vua xứ Thần Châu sau khi vua cha băng hà
...

Nói qua nàng Lệ Hồ, sau khi xô chồng xuống núi, bèn trở về tự do ăn ở với tên tướng
cướp đốn hèn
...

Suốt quảng đường thiên lý, nhờ nàng khéo đóng trò gạt gẫm dân chúng, nên được no
cơm ấm áo
...
Ngoài sự giúp đỡ vật thực áo quần họ còn cho nàng một cái thúng
rồi khuyên nàng nên để chồng ngồi trên cái thúng rồi đội đi cho tiện hơn
...

Trên lưng voi, đức vua Minh Dũng bỗng nhiên thất sắc vì mắt Ngài bắt gặp nàng Lệ Hồ
cũng có mặt trong đám du thực
...
Trăm ngàn lần không thể lầm được
...

Đức vua cố nén cơn phẫn nộ, Ngài phán:
- Nàng Lệ Hồ nàng hãy can đảm nhìn mặt ta xem có phải ta là Minh Dũng chồng nàng
chăng? Nàng là một người đàn bà dâm bôn phản bội
...
Mà trái lại kẻ đau
khổ chính là nàng
...

Vì quá đau khổ, nào đói khác, nào nằm ngồi khó khăn, lại thêm lương tâm cắn rứt, nên
hai kẻ khốn cùng ấy đã kiệt sức và ngã gục trên nẻo đường vô định đầy sương
gió phủ phàng
...
- CỨU HÀNG VẠN SINH LINH TRONG
MẤY KIẾP
Đêm nọ, đức vua Ba Tư Nặc nghe bốn tiếng “ Du Sa No So” rất lớn nên ghê sợ
...
Sáng hôm sau lâm trào, vua cho mời các thầy Bà la môn đoán mộng đến
hỏi về bốn tiếng ghê rợn ấy
...

Cách thức tế thần lửa của bọn Bà La Môn rất dã man
...
Đó là tế thần lửa
...

Lệnh bà nghe tiếng la ấy mới lấy làm lạ liền vào hầu hỏi đức vua
...
Đức Thế Tôn dạy rằng việy
ấy không có hại gì đến một nhân vật nào cả và Ngài mới giải rõ cho Đức vua biết nhân sinh
bốn tiếng “Du Sa No So” ấy
...
Và chúng
rất hối tiếc việc ác đã tạo
...
Tất cả điều tán dương ân đức hoàng hậu Malika
...

Các Thầy Tỳ Khưu khi nghe câu chuyện này, mới vào hầu Đức Phật và đem câu chuyện
ấy ra nói, và khen bà Hoàng Hậu Makila thật là một bậc trí thức, chỉ một lời nói mà cứu
được biết bao sinh linh
...

Nàng đã dùng trí tuệ mà cứu nhiều nhân vật trong kiếp trước nữa
...

Thái tử ngày nọ đến dưới một cội cây dừng to lớn van vái với một vị Thọ thần nơi cây ấy
rằng: “Nếu sau khi phụ vương tôi băng hà, ngài hộ trì cho tôi tức vị và chiếm lấy thêm một
127

trăm lẻ một nước nữa tôi sẽ cúng dường máu của một trăm lẻ một nhà vua và một trăm lẻ
một vị hoàng hậu của xứ ấy cho ngài
...
Ngài theo lời hứa với vị Thọ thần, bắt một trăm
lẻ một nhà vua và một trăm lẻ một vị hoàng hậu đến cột ở cây cội dừng để giết lấy máu tế
Thọ thần
...

Khi ấy vị thọ thần hốt hoảng vị sợ tội lỗi ghê gớm sắp thi hành, cũng vì lời van vái xưa
của vị thái tử, mà chính ngài làm Thọ Thần
...
Ông bèn nghĩ rằng: “Nếu
để như vầy, cõi Diêm Phù đề này sẽ không còn vua và cội cây ta sẽ dơ uế
...

Lúc đại lễ sắp cử hành, vị Thọ Thần mặc một áo bào đỏ, trong cội cây bước ra
...

Đức vua nghe qua kinh sợ, mới bắt luôn bà Đàn Ma Dinh để giết
...
Đức vua Bãrãnasĩ nổi giận hỏi:
- Ta đây là đấng chúa tể đã chinh phục một trăm lẻ một nước tại sao nhà ngươi không
đảnh lễ ta mà lại đảnh lễ chồng của nhà ngươi là một nhà vua đã mất nước
...

Vị Thọ Thần liền vỗ tay khen bà:
- Lành thay! Lành thay!
Đức Vua Bãrãnasĩ lại tức giận thêm:
- Nhà ngươi không làm lễ ta đã đành
...

128

Vị Thọ Thần vỗ tay khen ngợi bà lần nữa
...

Vị Thọ thần lại hoan hô lần nữa:
- Lành thay! Chí lý thay!
“Không có thần thánh nào giúp đỡ ta, hoặc cho ta tội , hoặc ban phước cho ta cả
...

Đức Thế Tôn lại nhắc tiếp tích ấy cho các vị Tỳ Khưu nghe:
- Bà Đàn Ma Dinh nói đến đó, bỗng nhiên khóc òa rồi lại cười lên sặc sỡ
...

Đức vua hỏi:
- Nếu không sao nhà ngươi bỗng khóc rồi lại cười?
Bà đáp:
- Thần thiếp nhớ kiếp trước của thần thiếp
...
Khi
được sinh lên cảnh giới này lại phải bị người khác giết chẳng biết bao nhiêu kiếp đếm ra đủ
bằng số lông của con dê bị thần thiếp giết trước kia
...
Nghĩ vậy mà thần thiếp khóc
...

Đức Thế Tôn nói:
- Đức vua Bàrànasì là Đức vua Ba Tư Nặc hiện giờ đây
...
Còn vị Thọ thần khi ấy là Đức Như Lai vậy
...
Bà đã dùng trí tuệ cứu sống một trăm lẻ một nhà vua và một trăm lẻ một vị hoàng hậu
trong kiếp trước nữa
...
- CÓ BÓNG BÊN VỊ TỲ KHƯU
Kể từ khi vị Tỳ Khưu Kondahana xuất gia, mỗi lần Thầy đi đâu một bước cũng thấy sau
lưng Thầy một bóng người phự nữ đi theo
...

Những thí chủ dâng cơm Ngài mỗi lần thường chia làm hai phần và nói rằng:
- Phần cơm này về phần Ngài và phần thứ nhì về phần cô bạn của Ngài
...

Các vị Tỳ Khưu khác thấy như vậy đinh ninh rằng Thầy phạm sắc giới Bất cộng trụ mới
đi nói với trưởng giả Cấp Đô Đốc và yêu cầu ông đuổi Thầy Tỳ Khưu Kondahana khỏi
chốn thiền môn
...
Các Thầy Tỳ Khưu
lại đem câu chuyện kể cho bà tín nữ Viasakha biết, bà này cũng không dám vì cũng như
ông trưởng giả, bà rất có lòng kính nể vị Tỳ Khưu đó
...

Nhà vua rất ngạc nhiên nhưng cũng nhận lời
...
Còn Ngài lên thẳng chánh điện
...
Liền đó, nhà vua thấy sau lưng Thầy
quả có bóng một phụ nữ theo sau
...
Thầy Kondahana mới yên
tâm bước vào trong
...
Nhưng Ngài lấy làm lạ sao lúc thầy
Kondahana bước vào trong thì không thấy bóng người đàn bà ở bên Thầy
...

Ngài bước vào hỏi vị Tỳ Khưu:
- Bạch Ngài! Trẫm vừa trông thấy một người phụ nữ ở tại đây, cô ấy đâu rồi?
Thầy Kondahana cung kính đáp:
- Tâu đại Vương, bần đạo cũng chẳng thấy
...

Đức vua mỗi lúc thấy thêm hoang mang, lòng nửa tin nửa ngờ, không biết làm sao cho
dứt khoát
...

Thầy Tỳ Khưu vâng lời bước ra, và lần nữa nhà Vua lại thấy có người phụ nữ đi theo sau
lưng Ngài
...
Thầy lại trở vào và
ngồi xuống
...

Đức vua mới nghĩ rằng đây là hình giả
...

Thầy Kondahana lại bước ra đứng ngoài thì hình người phụ nữ lại hiện ra đứng sau lưng
...
Đức vua và các thầy Tỳ Khưu đến hầu Phật và
đồng bạch hỏi rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn, Thầy Kondahana đã tạo nghiệp gì trong quá khứ?
131

HÓA GÁI ĐỂ CHIA RẼ ĐÔI BẠN
Sau khi các Thầy Tỳ Khưu đã đứng hầu đông đủ, Đức Thế Tôn mới dạy rằng:
- Trong thời kỳ Đức chánh đẳng chánh giác tên Kassapa có hai vị Tỳ Khưu yêu thương
nhau chẳng khác nào anh em cùng một cha mẹ
...
Không khi nào họ nghi hay
giận hờn nhau
...

Một năm nọ, gần đến ngày lễ Phất Lồ, hai Thầy rủ nhau đi dự đại lễ
...
Thấy hai
vị Tỳ Khưu kia quá thương nhau mới nghĩ kế chia rẽ hai người
...

Vị chư thiên mới đợi cho ngài Tỳ Khưu ấy đi sông xong và từ bụi cây bước ra, vị ấy liền
hóa ra một người phụ nữ, cho một tay nắm lấy quần, và một tay vén mái tóc làm như vừa
mới ân ái xong từ bụi cây nọ bước ra sau
...

Vị Tỳ Khưu kia giận bạn đợi cho bạn đến liền quát:
- Thầy là người phá giới! Sao dám làm điều ô nhục thế?
Người bạn ngạc nhiên:
- Bạch Ngài đâu có việc gì?
- Vừa rồi tôi thấy rõ ràng một người phụ nữ ở cùng bụi chui ra với Thầy
- Bạch Ngài, chuyện này thật tôi không có
...
Kết cuộc hai
thầy bỏ nhau, chia đường nhau mỗi người mỗi ngã không bao giờ gặp nhau nữa
...
Ông ăn năn tự nói:
- “Ta đã làm nên tội quá đáng lắm rồi! Lương tâm ta không thể yên được
...

Hai vị Tỳ Khưu nghe lời lại cùng chung nhau đi làm lễ
...

Ngó qua Đại Đức Kondahana Đức Phật dạy tiếp:
- Vì nghiệp đê tiện ấy, nên mới có chuyện phi thường như hôm nay
...
Có thế
ngươi sẽ đắc quả Niết Bàn
...
– THOÁT ÁCH MA VƯƠNG
Khi Đại Đức Xá Lợi Phất xuất gia, Ngài còn một người em trai và một người em gái
...

Bà mẹ thấy con trai của bà là Ngài Đại Đức Xá Lợi Phất xuất gia, bà sợ con trai út cũng
xuất gia theo anh nên bà lo đi cưới vợ cho con
...

Trong khi ấy cả họ chọn được bà ngoại của cô dâu là người có đủ điều kiện
...


(Ý bà nói rằng: Bà cầu xin hai cháu ăn ở với nhau cho đến răng long tóc bạc như bà vậy)
...
Ông mới chợt nghĩ rằng:


“Bà ngoại vợ ta trước kia cũng đẹp, mà hôm nay cái đẹp ấy không còn, thì sau này
vợ ta cũng chịu cái cảnh già này
...


Trên đời này không có chi trường tồn bền vững
...

Chàng thanh niên suy xét đến đó, đồng thời nhớ lại trong đời mình đã chứng kiến biết bao
nhiêu cảnh biển dâu buồn thảm
...
v
...
Chàng nảy ra ý
xuất gia theo gương của anh, quyết tâm rời bỏ gia đình vào nương cửa Phật
...
Biết tính sao đây cho vẹn cả đôi
bên? Vừa được lòng hai họ, nghĩa là đừng gây cảnh đổ vỡ trong buổi lễ long trọng này, vừa
đừng để cho cô dâu tủi hổ, thiên hạ cười chê?
Thình lình óc chàng sáng lên, chàng nghĩ ra một kế, và nhất định thi hành
...

Nhiều lần như vậy, mẹ chàng tưởng con bị đau bụng thật nên không để ý, để cho chàng tự
do và cho xe rước dâu về trước để chàng đi sau
...

Chư tăng hỏi:



Chàng có được sự ưng thuận của cha mẹ chưa?
Bạch Chư Đại Đức chưa?

Chư Tăng không dám cho xuất gia vì theo luật Đức Thế Tôn cấm không cho người xuất
gia trong khi cha mẹ chưa cho phép
...


Chư Tăng mới lấy làm lạ hỏi rằng:


Gã kia! Người đã điên rồi chăng? Tại sao ở giữa tăng chúng mà người lại la lên như
thế? Ai cướp của ngươi?

Chàng đáp:


“Bạch Chư Tăng! Trong vòng sinh tử luân hồi, đệ tử đã bị Ma Vương cướp lấy
duyên lành của đệ tử rất nhiều lần rồi và hơn nữa tử thần cũng đã lấy sinh mạng của
đệ tử rất nhiều lần, tử thần rồi sẽ đến cướp mất sinh mạng này đi, thì làm sao gặp
được chân lý giải thoát của Chư Phật
...

134

Chư tăng sực nhớ đến lời căn dặn của Ngài Xá Lợi Phất nên cho em Ngài xuất gia
...
Nhờ vậy nên Ngài đắc A La Hán quả được dễ dàng
...
Vậy ta nên áp dụng trí tuệ trong
mỗi trường hợp, dù chuyện rất nhỏ
...


***

59
...
Ngày nọ ăn cơm xong không có nước uống, Ngài mới đi tới một tư thất của một
vị Đại Đức trong rừng tìm nước uống
...

Vị Đại Đức nghe vậy, lấy làm lạ, nghĩ rằng: “Ta đã múc đầy nước rồi, tại sao người này
lại nói không có?” Ngài mới đến chỗ hũ nước xem coi, thấy nước vẫn còn đầy
...
Ông uống cả thẩy ba mươi hai gáo, khi uống xong ông ta
mới nghĩ: “Kiếp sau của ta sẽ ra sao kìa? Ta làm nhiều tội lỗi đến nỗi hũ nước đầy mà ta
không trông thấy”
...
Sau khi xuất gia xong, ông cố hết sức
hành đạo nhưng không bao giờ tâm ông trụ lại
...
Ông cảm thấy ông
không thể hành đạo được, mà ở ăn của tín đồ càng thêm tội, nên ông xin với Thầy Tế Độ
cho ông hoàn tục
...

Thầy Tế Độ thấy vậy mới nói: “ngươi để đó cho ta”
...

Khi ông ta biết đó là lửa địa ngục, rất lấy làm kinh sợ mới hỏi Thầy rằng: “Bạch Thầy,
Phật đạo có thể đưa con người khỏi khổ được chăng? Nếu có thật đệ tử nguyện hết lòng tinh
tấn tu hành để giải thoát”
Từ ngày ấy ông rán hết sức tu hành không hề xao lãng
...

135

Ngày nọ, ông đổ nước vào lu xong, còn cái nồi nước ông để trên vế, những giọt nước còn
dư nhiễu xuống
...
Ông nghe câu ấy liền suy nghĩ rằng: “Đã gọi là
siêng năng thì như ta đây là người có trí nhớ, việc làm chân chánh, suy nghĩ trước thực hành
sau, đã thu thúc ở trong chánh pháp không dễ duôi”
...


***

60
...
Sau khi cha mẹ quá vãng
...
Vì vậy nên Ngài mới bố
thí hết của cải của Ngài không biết bao nhiêu mà kể
...

Ngài hành theo hạnh Tri túc
...
Pháp
hành cao thượng của Ngài như thế làm cho nóng đến Đức Đế Thích
...
Vì vậy tôi mới đến đây và xin hứa với Ngài rằng: “Ngài mong ước điều gì,
tôi xin vui lòng giúp Ngài đoạt thành như ý”?
Vị Đạo sĩ ấy đáp rằng: Tâu Đại Vương, lời hứa của Ngài thật là quý giá, nhưng sự mong
ước của bần đạo không có gì khó
...

Đạo sĩ nói: “Tâu Đại Vương, hiện giờ lá và trái cây ấy vẫn còn
...

Đức Đế Thích nói: “Đại Đức cứ thật tình bảo cho tôi biết, tôi hết lòng giúp đỡ Ngài,
thuốc men hay là y phục vân
...
xin Ngài cứ bảo:
Đạo sĩ nói: “Tâu Đại Vương, không! Bần đạo không cần những thứ ấy
...

Đức Đế Thích hỏi: “Đại đức ghét kẻ ác đến thế à?”
136

Vị Đạo sĩ nói: “Chẳng những thế xin cho tâm hồn của bần đạo không ưa thích và xu
hướng theo kẻ ác”
...

Vị Đạo sĩ đáp: “Phải, đúng như vậy!”
Đức Đế Thích hỏi: “Bạch Ngài, Ngài có thể cho tôi biết người ác đã từng làm gì đối với
Ngài?”
Đạo Sĩ nói: “Tâu Đại Vương, xin Đại Vương đừng bắt buộc tôi nói chuyện đã qua của kẻ
khác đã làm
...

2/ Kẻ ác làm chuyện không phải phận sự của chúng
...

4/ Kẻ ác, mặc dù chúng ta nói sự chân thật, lời hay lẽ phải, họ cũng không nhận thức, mà
còn hờn giận, trách oán gây thù
...

Người ác thường hay có những điều xấu xa như thế nên bần đạo nguyện lánh xa
...


***

61
...
Nhưng có một thời cây
cỏ như ủ rũ, buồn rầu, cảnh xinh xinh kia đã đượm mầu tang tóc
...

Người chị dâu mê lụy hăng say hơn đã nhiều lần xúi dục em chồng giết chồng đi để cả
hai được tự do hưởng hạnh phúc bên nhau
...
Nàng đã lao mình vào bể tội lỗi như con thiêu thân đi
tìm cái chết bên ánh đèn
...
Chàng đã nhiều lần
khuyên nhủ bạn lòng nhưng người chị dâu không nản chí, tìm đủ cách để khuyến nhủ người
yêu
...
Một bữa nọ, người em đáng thương hại kia
đã xuống tay hạ sát người anh vô tội
...
Mỗi
lần nàng ngồi hay làm gì trong nhà thì đã có tắc kè nằm trên xà nhìn xuống, có khi lại thả
mình rơi vào lòng vợ
...
Chỉ vài hôm sau, nhân bắt được tắc kè rơi trên mình, nàng đem ra quật
chết tươi
...
Lúc con chó khôn lớn, mỗi lần thiếu phụ kia đi đâu, nó chạy theo một bên như bóng
với hình, quyến luyến vui mừng
...
Họ chọc ghẹo nàng và có khi gọi nàng là thợ săn
...

Mối tình tội lỗi theo thời gian mà kéo dài
...

Bên kia thế giới, con chó chết oan kia, nợ tình vẫn chưa dứt
...
Chó lại được chuyển kiếp sinh làm con bò đực
ở trong nhà người vợ
...
Và cũng như
chó, bò lẽo đẽo theo vợ mỗi lần vợ đi đâu hay ra đồng cấy gặt
...
Người ta xì xầm nhau
chán, còn gọi thiếu phụ là ả chăn bò
...
Chịu đựng không nổi với lời bỡn cợt có tính cách phỉ nhổ, lần thứ ba người đàn bà quỷ
quái kia lại giết chồng đội lớp lông sừng
...
Mối tình ấy càng thêm nặng và dù
phải chết nữa hay bao lần nữa, anh chồng vẫn tìm đủ cách để trở về bên vợ
...
Chàng từ vai người chồng đến vai
súc vật và đến nay thì trở thành con vậy
...

Sau khi ra đời, đứa nhỏ nhớ kiếp trước của mình rành mạch
...


138

Lòng ác độc của người vợ in sâu vào tâm khảm người chồng bạc phước trải bao kiếp
không nguôi
...
Mỗi
khi thiếu phụ ẵm bồng hay cho ăn cơm, tắm rửa, hắn la khóc dẫy dụa ầm ỹ như đau đớn sắp
chết
...
Chán nản một hôm nàng trao con cho
ông bà nội hắn
...
Mặc dù thế đứa bé vẫn vui tươi không khi nào khóc kêu
gì cả và cứ như thế hắn lần hồi lớn lên trong tình yêu của ông bà nội
...


Nghe qua câu chuyện tình đẫm máu mà xưa nay ông chưa từng hay biết, ông già mới thấy
rõ lòng dạ nham hiểm của người dâu
...
Ông cháu mình sẽ đem nhau đến cửa thiền
...
Ông nội thì khóc cho mối tình ngang trái
của cháu mà mới hôm nào là đứa con trai yêu mến của mình
...

Và mấy ngày sau, trong một ngôi chùa, người ta thấy hai vị tăng, một già một trẻ sống an
vui dưới bóng Phật thiền
...

Phải! Họ cố gắng để quên đi mối tình sa đọa của hai kẻ kia mà trong đó, chính họ là
những nạn nhân đáng thương hại nhất
...

Họ đã chứng quả vị A La Hán
...

***

62
...
Đức vua
có bốn vị giáo sư là Sekana, Kamina, Devinda và Paku
...
Có một tia lửa
nhỏ bằng con đom đóm ở giữa bốn đám lửa ấy, phựt cháy lên ánh sáng rực rỡ chiếu diệu
bốn phương trời (chỉ cõi Phạm Thiên)
...
Khi vua tỉnh giấc cho đòi bốn vị giáo sư vào dạy đoán điềm mộng của mình
...
Còn tia lửa nhỏ chiếu sáng bốn hướng, cao tột trời che án bốn
chúng tôi là bậc có nhiều trí tuệ
...
Lúc ấy
cũng có một ngàn vị trời cùng giáng sinh với Đức Bồ Tát, làm con của một ngàn tiểu phú
gia ở gần đó
...
Sinh
ra khỏi lòng mẹ, Đức Bồ Tát có cầm hoàn thuốc
...


Lập tức mẹ Ngài cho mài thuốc, bảo đem cho chồng uống, vì ông triệu phú đang mang
bệnh bảy năm mà chữa không lành
...
Do đó đặt tên Bồ Tát là Mahosatha
...

Lên bảy tuổi, Đức Bồ Tát thường hiệp chơi với một ngàn trẻ nhỏ, con của tiểu phú gia
...
Đức Bồ Tát có sức mạnh hơn nên chạy đến trước, mấy đứa trẻ nhỏ kia chạy sau bị
mưa gió to té khóc
...
Các trẻ đồng ý
...

140

*Phước xá dành cho người thương mãi
...

*Phước xá dành để giảng đạo, phá nghi những điều khó hiểu
...

Cất xong Bồ Tát cho thợ vẽ nhiều bức tranh ảnh rất mỹ thuật
...

Khách bốn phương đi ngang qua đều ghé vào nghỉ mát, ngắm cảnh như ý muốn, Đức Bồ
Tát thường chăm nom, săn sóc và có trữ đủ các thức ăn, uống, tiện nghi ăn ở tắm rửa cho
khách
...

Về đức vua Videharaja sau giấc chiêm bao kỳ lạ kia hằng tưởng nhớ đến lời dự đoán của
bốn vị giáo sư, nên cho quan quân đi xem xét dò la bốn phương để tìm nghe tin tức bậc trí
tuệ
...
Hỏi han thì chúng dân cho biết những phước xá này không phải tự nhiên mà thợ
làm được mà nhờ Mahosatha mới lên bảy tuổi, có nhiều trí tuệ, dạy cho thợ cất và vẽ tranh
ảnh đó
...
Liền đó ông viết sớ tâu
lên vua rõ
...


Đức vua nghe theo nên truyền cho thám tử ở lại nơi đó chờ xem coi có chi lạ nữa không?
CHUYỆN ANH TRỘM BÒ NGỚ NGẨN
Một ngày kia, có người lái bò ở gần đấy thả bò cho ăn, còn anh chàng thì nằm nghỉ dưới
bóng cây rồi ngủ quên
...
Người chủ thức dậy không thấy bò, tìm
xem thì biết mình bị kẻ trộm
...
Kẻ trộm cũng dành là bò của y
...
Ngài nghe sự việc biết rõ là bò của
ai, nhưng muốn cho công chúng phân minh
...

Anh cho nó ăn vật chi?
Thưa cho nó ăn cháo hoặc đậu
...

Anh cho nó ăn vật chi?
Thưa tôi nghèo chỉ cho nó ăn cỏ
...
Thấy cỏ, nó chỉ ăn cỏ
theo lời khai của chủ bò, nên chủ bò được trả bò lại
...

GIẤU ĐẦU LÒI ĐUÔI
Có một thiếu phụ nghèo đến hồ tắm của Đức Bồ Tát thay y phục để trên bờ hồ rồi xuống
tắm
...
Thiếu phụ đang tắm, bèn chạy lên đuổi theo nắm kéo lại và la:


Cô nầy lấy đồ của tôi
...
Phần đông nghe đều hội lại xem
...


Bồ Tát lại hỏi cô chủ:



Cô thấm y phục bằng vật gì?
Thưa tôi chỉ thấm bằng mùi hoa thường
...

Bồ Tát dạy trả y phục cho cô chủ và Ngài khuyên cô ăn cắp kia chẳng nên làm nghiệp
xấu xa như vậy nữa
...

ĐỨA BÉ BỊ QỦY DẠ XOA BẮT ĂN THỊT
Cô nọ ẵm con đi tắm
...
Trong lúc
đó có một nữ dạ xoa thấy muốn bắt đứa bé để ăn thịt nên biến thành một cô gái đến hỏi đứa
bé ngộ nghĩnh rồi ẵm nựng, chốc lát bồng đứa bé đi luôn
...


Khi cả hai phụ nữ cãi nhau thì vừa đến trước phước xá của Đức Bồ Tát
...

Nhận thấy cử chỉ của hai người, Ngài biết rõ tự sự của hai người
...

Bồ Tát dạy để đứa bé nằm xuống rồi bảo Dạ Xoa nắm tay đứa bé, mẹ thiệt nắm chân
...


Thế rồi hai phụ nữ kéo qua níu lại, làm cho đứa bé đau điếng, khóc la
...

Khi ấy Đức Bồ Tát lên tiếng:


Lệ thường phụ nữ không phải là mẹ thì không có lòng thương xót con trẻ
...
Cô kia là mẹ thực, vì sợ tội nghiệp con, nên đành buông tay,
thà mất con còn hơn để con chịu đau đớn
...

Nầy ác phụ từ đây người không được tạo nghiệp dữ nữa, vì kiếp trước ngươi là kẻ ác,
nay mới luân hồi làm Dạ Xoa
...
Người mẹ đứa trẻ hết lòng cảm
tạ Đức Bồ Tát và từ biệt ẵm con ra về
...
Anh
trang điểm vợ rất đẹp rồi dẫn vợ về quê hương
...
Lúc đó có một anh nhà nghèo tên là Diga lưng dài, cũng vừa đi đến nơi
ấy
...

Anh có thể qua sông này được chăng?
143







Tôi thường qua lại, sấu và cá dữ đã quen nhau với tôi rồi, khônglàm gì tôi đâu
...

Được
...
Lúc ra xa bờ, anh nầy giả bộ rùn
xuống để cho anh lùn kia thấy là sông sâu, rồi khuyên vợ anh lùn nên lấy anh làm chồng, vì
anh giàu sang, có tôi tớ đông đủ
...
Khi qua đến bờ rồi, cả hai dắt nhau đi luôn
...
Cuối cùng vì quá yêu vợ nên liều chết, anh lội qua sông, lúc ấy mới rõ là sông cạn,
anh lùn liền rượt theo kịp, anh la bảo anh lưng dài phải trả vợ lại
...

Bồ Tát kêu hai bên vào, rồi hỏi anh lưng dài:


Anh tên họ gì, cha mẹ vợ tên gì, làm nghề gì, vợ anh tên chi?

Rồi Ngài hỏi anh lùn:


Vợ anh tên gì? Cha mẹ vợ tên gì?

Kế Ngài hỏi đến người phụ nữ, biết rõ phía nào phải
...
Ngài hỏi Diga:




Có phải anh là người cướp vợ người chăng?
Dạ phải!
Anh chẳng nên làm việc xấu như vầy nữa
...

Công chúng khen ngợi Đức Bồ Tát là bậc trí tuệ
...
Họ đồng tâu:


Xin Đức Vua nên chờ xem đã
...
Đức Đế Thích xem thấy muốn
làm sáng trí tuệ của Đức Bồ Tát cho rạng rỡ hơn trong đời, nên Ngài liền hiện xuống trộm
chiếc xe đem đi nơi khác
...
Xem kỹ thấy người trộm xe đang
đánh xe đi
...
Hai bên đều viện lẽ là xe của mình, cãi
nhau đến phước xá của Đức Bồ Tát
...


Bồ Tát bảo ai chạy theo kịp chiếc xe là chủ của chiếc xe đó
...
Về phần Đức Đế Thích đuổi
theo kịp xe, chẳng thấy mệt nhọc chi cả
...

Ngài hỏi Đức Đế Thích:



Có phải Ngài là Đức Đế Thích hiện xuống đây chăng?

Đức Đế Thích niềm nở đáp:




Nầy cháu là bậc trí tuệ, thật vậy, ta là trời Đế Thích
...


Nói xong Ngài bay lên hư không, tuyên bố khen ngợi trí tuệ Ba La mật của Bồ Tát, rồi
Ngài trở về trời
...


Đức vua bèn phán hỏi bốn vị giáo sư
...

145

Đức vua không cách nào khác đành bỏ qua cơ hội
...

Bữa nọ, Đức vua muốn thử thách Mahosatha liền dạy người chuốc cây bằng phẳng hai
đầu, rồi gởi đến hỏi dân trong làng Bồ Tát ai biết đầu nào gốc ngọn
...

Nhân dân trong làng không một ai phân biệt được, bèn đem đến cho triệu phú Sirivada
thân phụ của Bồ Tát
...
Bồ Tát đem khúc
cây thả trong nước, đầu chìm trước đầu chìm sau và Ngài hỏi công chúng:




Lệ thường cây cối đầu gốc nặng hay đầu ngọn nặng?
Thưa phía gốc nặng hơn
...


Cha Đức Bồ Tát tâu lên Đức vua rõ
...

Lại một lần khác, Đức vua gởi hai cái đầu lâu, dạy dân chúng quan sát coi, đầu nào của
phụ nữ và đầu nào của người nam
...

Ngài giải rằng:


Lệ thường phụ nữ có đầu tóc rẽ ngay
...


Đức vua nghe rất khen và hỏi ý kiến bốn vị giáo sư nọ
...

Đức vua nghe lời, nhưng muốn thử thách lần nữa
...
Nếu kẻ nào không nộp sẽ bị phạt
một ngàn lượng
...


Đức vua nghe được rất hoan hỷ
...
Họ cũng ngăn cản nữa
...
Ngài dạy dọn long xa cho Ngài ngự đi rước Bồ Tát
...
Bốn vị
giáo sư vào chầu thăm vua và tâu:
146



Tâu Hoàng thượng! Vì không nghe lời tâu của chúng hạ thần nên Hoàng thượng
mang tai nạn như thế
...
Cháu phải gởi ngựa
tốt hoặc ngựa hay hơn cho Trẫm”
Thì tất nhiên Mahosatha sẽ vào chầu bệ hạ, bằng không sẽ có ông triệu phú là cha của
Mahosatha đến chầu
...
Nếu là bậc trí tuệ thật, Mahosatha sẽ đến, bằng không cũng cho thân sinh vào
chầu
...

NẾU CHA CAO QUÝ HƠN CON, THÌ LỪA NÀY PHẢI QUÝ HƠN NGỰA
Khi Bồ Tát được lệnh vua thì hiểu liền Đức vua muốn mời Ngài vào đền
...
Khi vào chầu, vua mời ngồi rồi lúc cha thấy con ngó cha, cha
nên đứng dậy, tránh khỏi nơi ấy, rồi gọi con đến ngồi nơi ghế của cha đã ngồi trước
đó, ấy là câu thai cao thượng
...
Vị Triệu phú tâu:


Con hạ thần sẽ vào chầu sau
...
Vì nghe
được tiếng Ngài còn bé mà trí tuệ nhất đời, có cả một ngàn thiếu nam tùy tùng
...
Ngài dạy người bắt, buộc
miệng không cho nó la được, lấy chiếu đắp trên mình nó và dẫn theo sau Ngài
...
Những người thiếu trí tuệ
nhất là bốn vị giáo sư bèn vỗ tay cười nhạo rằng:


Đó là bậc trí tuệ nhất của Hoàng thượng!

Coi cha đứng dậy để nhường chỗ cho con ngồi có đúng không thật là một đứa trẻ ngu
ngốc, như thế phần đông có đáng khen là bậc trí tuệ chăng?
Đức vua nghe thấy nhiều người nhạo báng
...

Đức Bồ Tát tâu hỏi Đức vua:


Vì sao Hoàng Thượng hổ ngươi?
147





Trước kia Trẫm hằng khen cháu là bậc trí tuệ trong đời nay thấy cháu làm những
chuyện không hay như vầy nên trẫm buồn, vì cháu bảo cha cháu đứng dậy, rồi cháu
lên ngồi chỗ cha cháu, bởi cha là cao quý hơn con đủ cả mọi phương diện
...
Đáng giá tám đồng hoặc
tám lượng
...

Tâu Hoàng thượng! Trước Hoàng thượng phán: Cha cao quý hơn con đủ mọi phương
diện, thật vậy, con lừa nầy quý hơn ngựa hay
...
Phải vậy chăng tâu Hoàng thượng? Nếu Hoàng thượng cho rằng cha cao quý
hơn con, thì xin Hoàng Thượng dùng cha tôi đi
...
Trước Hoàng thượng dạy tôi phải đem ngựa hay đến dâng
...

Vì lừa nầy là cha của ngựa hay nhất, quý hơn ngựa tốt
...
Bốn vị Giáo
sư của Hoàng thượng đây, Hoàng thượng chọn từ đâu? Câu thai dễ dàng như thế mà tìm
không ra, lại còn nhạo cười nữa ư?
Đức vua nghe thấy lấy làm cảm phục và rất vui thích
...

Bốn vị giáo sư tỏ vẻ buồn thiu, hổ ngươi, gục đầu
...
Đức vua không quên đem ba vật báu đến cho mẹ Đức
Bồ Tát, và xin Đức Bồ Tát làm hoàng tử, ngự tại đền với Ngài
...

Tâu! Hạ thần có rất nhiều tùy tùng, hạ thần xin ở thành ngoài
...

NGỌC HIỆN TRÊN MẶT HỒ SEN
Một ngày nọ, dân chúng thấy ánh sáng ngọc Mani hiện trong ao sen, liền tâu lên Đức vua
...
Họ dạy tát nước ao cho cạn để
lấy ngọc, nhưng chẳng thấy ngọc
...


Đức Bồ Tát đến mé ao đứng quan sát thấy ngọc Mani trên đọt cây thốt nốt, tâu vua:



Ngọc Mani không có trong ao nước
...


Rồi Đức Bồ Tát bảo người leo lên cây thốt nốt gần phía đông ao nước lấy ngọc Mani
trong ổ quạ đem xuống dâng cho Đức vua
...

Đức vua rất thỏa mãn, ban thưởng ngọc báu, đang đeo trong mình cho Bồ Tát, còn ngọc
Mani vừa tìm được thì Đức vua tặng cho một ngàn thiếu nam tùy tùng của Bồ Tát
...

VÌ CỔ ĐEO TIỀN MÀ CẮC KÈ SINH TỰ ĐẮC
Một hôm, Đức vua cùng triều thần đi ngắm cảnh, Đức vua chợt thấy một con cắc kè to từ
ngọn cây bò xuống, thấy Đức vua nó liền gật đầu
...


Đức vua rất hoan hỷ, bèn dạy mỗi ngày xuất tiền mua thịt cho nó ăn
...

Từ đó con tắc kè tự đắc vì có tiền
...
Đức
vua hỏi Bồ Tát:
149




Thế là sao?
Tâu vì con cắc kè nương nhờ có tiền
...

Đức vua bất bình dạy người đánh đuổi nó đi
...

CHUYỆN ANH CHÀNG THAM ĂN VỚI VỢ
Có một học sinh của vị giáo sư trứ danh Disapa tên là Pingutta vừa lòng thầy nên thầy gả
con gái cho
...
Nhưng Pingutta là người xấu số, nên khi về với vợ
khiến anh không vừa ý vợ, không chịu đồng tịch đồng sàng với vợ, bởi anh là người ít
phước
...
Anh Pingutta xin phép cha mẹ vợ trở về xứ
...
Anh bèn leo lên bẻ trái
ăn
...
Anh chồng thấy thế, lén lần
xuống đến gốc lấy gai chất chung quanh cây sung, rồi bỏ đi mất
...
Hạnh phúc cho nàng, ngày ấy có Đức vua ngự đi ngoạn cảnh nghe người
than khóc, bèn dạy quan quân đi tìm xem và hỏi thăm, rồi đem nàng về phong làm Hoàng
hậu
...
Lúc ấy, Hoàng
hậu thấy anh Pingutta chồng cũ đang cắm cúi quét đường, Hoàng hậu cười
...


Đức vua nghe tâu không tin cho, nên Ngài thịnh nộ rút gươm cầm trong tay và Đức vua
hỏi ý kiến bốn vị giáo sư
...


Đức vua liền hỏi Bồ Tát, Bồ Tát nói:
150



Tâu, lệ thường, kẻ có tội với người hữu phước xa nhau lắm, cũng như trời với đất,
hoặc như bờ biển đây với bờ biển kia
...


Đức vua nghe hữu lý nên nói:


Nhờ con trẫm là Mahosatha mà trẫm được Hậu, bằng ta nghe lời bốn vị giáo sư kia
thì đã giết Hậu rồi
...


Bà Hoàng Hậu nghĩ:


Nhờ có Mahosatha nên mệnh ta mới còn, thật là bậc ân nhân của ta
...
Bao
giờ bà có vật chi quý báu hoặc cao lương mỹ vị, bà được phép biếu cho Mahosatha là em
bất kỳ là giờ phút nào
...

CHÓ ĂN CỎ - DÊ ĂN THỊT
Có một ngày Bát quan trai, Đức vua lên từng lầu cao đi kinh hành, thấy có một con chó
và một con dê
...

Chó cũng lén vào ăn thịt cá trong nhà bếp, bị đánh đập què giò
...

Dê hỏi chó:


Vì sao anh bị như thế?

Chó thuật lại cho dê nghe rồi hỏi:


Còn anh do nhân nào mà nằm tại đây?

Dê cũng tỏ cho chó nghe tự sự
...

Dê bày mưu:


Bây giờ tôi phải vào nhà bếp trộm thịt cá về cho anh, còn anh thì đi ăn cắp cỏ về cho
tôi, hai ta sẽ đổi thực phẩm cho nhau mà ăn thì lưỡng tiện lắm
...
Vì mấy ngườì nấu
ăn đâu sợ dê ăn thịt, cá mà gìn giữ, nên dê dễ trộm được thịt cá
...
Từ đấy dê và chó kết
bạn rất thân thiết
...
Ngài có ra câu đố cho bốn vị giáo sư phán xét:


Trẫm hỏi bốn khanh trong đời có loài thú nào nghịch cùng nhau mà trở thành thân
thiết với nhau không? Nếu khanh nào đoán không ra, trẫm sẽ đuổi ra khỏi thành
...

Đức vua phê chuẩn
...

Về phần Đức Bồ Tát Ngài nghĩ rằng:


Có lẽ vua thấy cái chi đây nên mới nghĩ ra câu đố này
...


Đức Bồ Tát để bụng ngay
...
Đức Bồ Tát thấy như vậy hiểu rõ rằng:


Dê và chó mật thiết nhau là do sự trao đổi thực phẩm cùng nhau
...


Về phần bốn vị giáo sư kia không ai tìm ra nổi câu đố của vua
...
Bất đắc dĩ, phải nhờ đến Đức Bồ Tát chỉ dạy cho
...


Qua ngày thứ hai cả bốn vị giáo sư vào chầu
...

Tâu xin hoàng thượng hãy lóng nghe
...


Đức vua không rõ ý nghĩa của câu kệ ngôn, nhưng vì là câu kệ nên cũng tin là phải
...
Bồ Tát bèn tâu rằng:


Tâu, dê chó là loài bốn chân, khi đi tha đồ ăn thì lén lút tha
...
Lệnh Hoàng thượng ngự trên
lầu cao đã thấy rõ hai con thú dê và chó làm bạn thân với nhau như thế
...

Khi ấy Hoàng hậu Uduma mới hiểu rằng:


Bốn vị giáo sư kia nhờ Bồ Tát mà trả lời được câu đố của Đức vua song Đức vua
phải thưởng em trai ta nhiều hơn mới phải
...

Đức vua nghe theo nên ban thưởng cho Bồ Tát nhiều hơn
...
Mặc người giàu có tật nguyền, điếc,
câm v
...
cũng làm chủ kẻ khác được
...
Những
kẻ tối tăm thường không thấy xa, chỉ biết trong kiếp hiện tại, không xét đến ngày vị
lai nên tạo biết bao điều ác, sau khi tan rã ngũ uẩn sẽ sa trong ác đạo, rồi sinh lên cõi
đời làm người nghèo hèn, khổ sở do các điều dữ đã tạo
...
Tâu, tôi quan sát thấy như thế, mới hiểu rằng người có trí
tuệ cao quý hơn
...
Không cần nói chi xa xôi như triệu phú Govinda, ông nghề chi cũng chẳng
biết, con trai, con gái cũng chẳng không
...
Có hai nàng đẹp như ngọc nữ chực hờ dùng hoa sen xinh tươi
chờ hứng nước miếng
...
Họ hết lòng tôn trọng, cho
đến người sang cả cũng kính nể
...


Bồ Tát tâu:


Senaka chẳng sáng suốt chỉ thấy gần, chỉ biết cái được mà không thấy cái mất, không
quan sát chu đáo
...
Lệnh Hoàng thượng nên thẩm xét
...
Chỉ biết say mê ngũ dục mãi mãi, không tưởng đến sự chết ngày mai
...
Kẻ vô trí tuệ trong giờ hấp hối thì vật mình kêu khóc, thương tiếc vợ
con, của cải, thân thuộc, quyến luyến trong vật dục
...
Vì thế mà phải nóng nảy vật mình, bực tức khóc kể, sợ
sa địa ngục, cũng vì thiếu trí tuệ
...

Tâu bệ hạ, hạ thần thấy rằng: người mà dính mắc trong của cải thì khó tránh được ác đạo
không nơi nương tựa
...

Đức vua xoay qua hỏi Senaka:



Mahosatha tâu như thế khanh nghĩ sao?
Tâu, Mahosatha biết gì, hạ thần xin thí dụ:

Cây có trái hằng có loài điểu thú thường lũ lượt bay đến kiếm ăn không dứt, thì người có
của cũng hằng có người vãng lai đông đúc
...
Còn kẻ dù có trí tuệ đến đâu mà nghèo thì không ai ngó đến
...

Đức vua liền xoay qua hỏi Mahosatha:
154




Senaka tâu như vậy con nghĩ sao?
Tâu hoàng thượng! Senaka giải như trẻ lên ba tuổi, thấy sao nói vậy
...
Vì kẻ nào tới lui thân cận, họ sẽ chết tức là hư hao của cải, vì kẻ vô trí tuệ hay
bày mưu kế để đoạt của người, chỉ tìm và làm việc bất chính là người ác mà không
biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi
...
Đó
cũng vì thiếu trí tuệ
...


Đức vua phán hỏi lại Senaka:



Lời Mahosatha như thế khanh có đồng ý chăng?
Tâu xin Hoàng thượng đừng tin lời Mahosatha
...
Người trí tuệ khi gặp kẻ
giàu thì đành chịu lu mờ, không rõ rệt
...


Đức vua chưa vừa ý lại hỏi Mahosatha:



Senaka giảng như thế con nghĩ sao?
Tâu hoàng thượng chẳng nên nghe lời Senaka
...
Dù cho sóng
có lực lượng đến đâu tạt vào bờ biển cũng dội lại, không vượt khỏi bờ biển được
...
Những người thiếu học được biết tội phước, lợi hại, chính tà cũng nhờ nghe
bậc trí tuệ là quý hơn
...

Senaka tâu rằng:


Tâu lệnh Hoàng Thượng, chớ nên tin lời của Mahosatha
...
Chuyện quấy thành phải, chuyện
phải ra quấy, mặc dù là bất công
...

Thấy như vậy nên hạ thần tâu rằng người triệu phú cao quý hơn
...

Những người có của, vô trí tuệ đen nói trắng, trắng nói đen mà người đời cũng nghe
theo, là vì phần đông là thiếu học
...
Tiếng xấu còn lưu
danh muôn thuở
...
Khi đến gần
người có của thì ẩn bóng dấu hình, mất mặt ví như đom đóm ánh sáng nhỏ không
được rực rỡ khi mặt nhật mọc lên
...


Đức vua nói với Mahosatha:



Con nên giải cho trẫm nghe thêm có được chăng?
Tâu lệnh Hoàng thượng, Senaka là người không thấy xa hiểu rộng
...
Bậc trí tuệ hằng được dân chúng ngợi khen
và cúng dường bằng các vật báu giữa nơi đô hội
...
Vì thế nên tôi tâu
rằng người có trí tuệ cao quý hơn
...
Bò trâu, tôi trai, tớ gái, các
thanh nam nữ cho đến những ngọc mani xa cừ v
...
chỉ có trong dòng giõi phú gia
...


Người có của hằng được thêm nhiều báu vật
...

Đức vua quay qua hỏi Mahosatha
...
Ví như loài rắn không thể giữ da được mà phải lột da bỏ lại
...
Vì thế hạ thần mới tâu rằng bậc trí tuệ hơn cả
...
Senaka thầm nghĩ:


Lần này ta làm cho Mahosatha phải phục tùng ta mới được
...
Hoàng thượng là bậc cao
quý lãnh đạo, chúng tôi là hàng có trí tuệ ví như Đức Đế Thích hay đàn áp chư tiên
...

Tâu, em Mahosatha chỉ đem kiếp vị lai để giải thuyết không thấy những lợi ích trong hiện
tại
...
Mahosatha liền tâu:


Giáo sư Senaka là người mù chỉ biết lợi danh trong đời mà quên đức tính thanh cao
là trí tuệ
...
Kẻ giàu thiếu trí tuệ hay mù quáng say mê ngũ dục
rồi bị sa sút, bị người chê bai khinh rẻ
...
Do
đó mà bảo tồn tài sản được lâu dài
...

Do có trí tuệ mà sinh linh đắc đạo quả Niết bàn, thoát ly khổ hải
...
Các
hàng thánh tử được khỏi luân hồi, hết phiền não cũng do trí tuệ
...

Đức vua nghe thế bèn hỏi lại Senaka:


Còn lời chi trình bày nữa chăng?

Khi ấy giáo sư Senaka không còn biết chi để thi thố, nên gục mặt hổ thẹn làm thinh, Đức
Bồ Tát Mahosatha bèn nói tiếp:


Trí tuệ là một đức tính mà bậc cao nhân hằng ưa thích, tôn trọng
...
Bậc trí tuệ không quyến luyến vật chất, bởi đã
quan sát thấy rõ ràng vật chất của cải hằng xúi dục con người gây nhiều tội lỗi, rồi
phải bị trầm luân, là nhân sinh các thống khổ không sao tả xiết
...
Không có chi đem so sánh với đức
tính của trí tuệ được
...
Nhận thấy thế nên
hạ thần tâu rằng: trí tuệ cao quý nhất
...

TIÊN NỮ NGỘ THẦN ĐỒNG
Bà Hoàng hậu thấy em là Đức Bồ Tát nay đã lên mười sáu tuổi cần phải có người nội trợ
để chăm non gia tài to tát, nên suy nghĩ tìm một tiểu thư xứng đáng để kết duyên lành cùng
Bồ Tát
...
Đức vua khen phải và phán:


Cần tỏ cho Mahosatha hay trước
...


Đoạn Bồ Tát xin để tự mình đi tìm thanh nữ xứng đáng theo ý nguyện
...

Trong thuở đó, có một nhà trước kia là triệu phú, nay đã sa sút
...
Một hôm, sáng sớm cô
thiếu nữ đem cháo dâng cho cha đang cầy ruộng
...


Phần nàng thiếu nữ khi thấy Bồ Tát cũng thầm nghĩ:


Nếu ta được người như vầy để nương bóng tùng quân thì đời ta sẽ được nhiều hạnh
phúc, có nơi nương tựa vững vàng
...


Bồ Tát nghĩ thầm không rõ ràng có nơi nào chưa?
Vậy ta nên thử thách nàng bằng cách ra cử chỉ để đố
...

Bồ Tát hiểu rằng nàng chưa chồng
...

Nầy cô! Tình trạng bất diệt là cái không có trong quá khứ vị lai hiện tại, như vậy quý
danh của cô là Amara phải không?
Vâng tôi tên là Amara
...

Nầy cô tiền thiện tức là cha mẹ
...

Thân phụ của cô làm nghề gì?
Cha tôi làm ở nơi một thành hai
...
Có phải thân phụ của cô là nông
phu chăng? Và cầy ruộng nơi nào?
Vâng thân phụ của tôi cầy ruộng nơi có “đi không trở lại”
Nơi “đi không trở lại” đó là tha ma, mộ địa, có phải vậy chăng?
158







Vâng đúng lắm
...

Nầy cô! Thân phụ cô cày gần mé nước, nước lên nhiều thì cô không trở về, nếu nước
nhỏ thì cô trở về phải không?
Thưa phải
...
Bồ Tát nghĩ nếu không dùng cháo thì thất lễ, vậy
ta nên dùng cháo chút ít
...

Nàng Amara để cháo trên đất
...

Nàng Amara hiểu ý dâng luôn nước
...

Khi dùng xong, Bồ Tát rửa tay và nói:


Tôi mong được biết nhà cô, xin cô vui lòng chỉ đàng cho tôi
...


Nàng dùng tay mặt cầm cháo mà chỉ
...

Bồ Tát nhận rõ đường đi đến nhà nàng Amara trước hết gặp quán bán chè, kế quán bán
nước cam, rồi gặp cây có lá hai chặn, đứng xem thì thấy ngã hai, đừng theo nẻo bên trái mà
nên đi bên phải
...

CUỘC TÌNH DUYÊN HOA GẤM
Thân mẫu của nàng, thấy Bồ Tát là người có tướng mạo đoan trang đến nhà nên mừng rỡ,
bà dọn chỗ mời Bồ Tát ngồi và dâng cháo
...


Mẹ nàng Amara hiểu rằng chàng đến với mục đích được con gái của bà
...
Bồ Tát xin ở trọ nhà ấy và
thưa rằng:


Thưa mẹ, tôi là người thợ may, vá và mạng y phục
...

159




Nầy con mẹ có y phục rách nhiều cần phải vá mạng song mẹ không có chi trả công
...
Xin mẹ đừng ngại chi
...
Khi vá mạng xong Bồ Tát yêu cầu:


Xin mẹ cho hàng xóm hay những người nào có y phục cũ rách đem đến cho con lãnh
vá mạng luôn cho
...
Trọn ngày ấy,
Bồ Tát mạng vá được tiền một trăm lượng
...
Dùng cơm xong, Bồ Tát
bèn lạy tạ song thân của nàng Amara và xin đính hôm cùng nàng Amara
...

Sáng hôm sau, Bồ Tát dạy vợ lấy nửa cân gạo làm ba món ăn: cơm, cháo, và bánh
...
Đồ nấu thật
ngon, nhưng Bồ Tát giả bộ chê trách: nàng dâng cháo, Bồ Tát nếm một chút rồi đổ trên đất
...


Bồ Tát ngửi hơi cơm rồi chê
...


Bồ Tát thọ thử chút ít rồi quở trách liệng bỏ và nói:


Thế là nàng không lành nghề nấu ăn
...

Cư ngụ được ba ngày, Đức Bồ Tát bèn đem hai ngàn lượng bạc đến dâng cho nhạc gia và
thưa:


Tôi xin dâng chút ít này để nhạc gia chi dụng đỡ
...
Nay tôi xin đem nàng
Amara cùng tôi ra đi, xin nhạc gia hoan hỷ
...

160

Khi Bồ Tát dẫn vợ về đến kinh đô Mithila, Ngài gởi vợ cho môn quan
...

Hai thanh nam tuân theo lời Bồ Tát
...
Ngài bèn cho người dẫn nàng Amara vào dinh của
Ngài
...
Nàng
bèn cười rồi khóc
...


Bồ Tát nghe qua khen nàng là người chân chính, rồi Ngài dạy đem nàng giao lại cho môn
quan, và Ngài vào đền tâu cho Hoàng hậu rõ: ngài đã chọn được vợ hiền
...

Từ Đức vua, Hoàng hậu cho đến dân gian thảy đều vui mừng phỉ dạ, chúc tặng quà sính
lễ nhiều không kể xiết
...

Bồ Tát nhờ vài vị quan trong triều về tận Uttara dâng lễ vật cho song thân nàng Amara và
xin rước về kinh phụng dưỡng như cha mẹ ruột
...
Trên triều đình nhờ có sự giúp đỡ của Bồ Tát
mà việc triều chính ngày thêm vững chắc, muôn dân sống trong an cư lạc nghiệp
...
Để chứng minh rằng: chơn chánh chẳng bao giờ dời đổi,
hung ác tà gian phải suy tàn! Đây mới là Phật Pháp thậm thâm nhiệm mầu vô cùng tận
...

Dùng Ánh Sáng Trí Tuệ mà phá tan màn vô minh tiến thẳng đến nơi vô sinh bất diệt là ĐẠI
NIẾT BÀN
...
quangduc
Title: Truyện cổ phật giáo
Description: Những mẫu truyện cổ phật giáo